Trang

TQ sẽ "sản xuất" hàng loạt trẻ thần đồng?

Thứ năm, 28/03/2013, 14:25 (GMT+7)
Trang Vice của công ty truyền thông Mỹ Vice Media vừa cho đăng tải một bài viết gây xôn xao dư luận, có nội dung ám chỉ Trung Quốc có thể đang theo đuổi kế hoạch dùng công nghệ gen để tạo ra một thế hệ trẻ thiên tài trong tương lai.
Dưới đây chúng tôi xin được lược dịch tóm tắt nội dung bài viết này:
Tại Viện nghiên cứu gen BGI của Trung Quốc ở Thâm Quyến, các nhà khoa học đã thu thập các mẫu ADN từ 2.000 cá nhân nằm trong số những người thông minh nhất thế giới và đang giải trình tự toàn bộ hệ gen của họ nhằm nhận diện những alen xác định trí thông minh của con người.

Rõ ràng, các nhà khoa học của Trung Quốc đang tiến gần tới kết quả và khi hoàn thành nó, việc soi phôi thai sẽ cho phép các bậc phụ huynh chọn hợp tử tốt nhất của họ và có thể tăng trí thông minh của mỗi thế hệ thêm từ 5 - 15 điểm IQ. Trong vòng một vài thế hệ tới, cạnh tranh với Trung Quốc về khả năng trí tuệ dường như sẽ bất khả thi.

Phóng viên của trang Vice đã có cuộc trò chuyện cởi mở với Geoffrey Miller, một nhà tâm lý học tiến hóa hiện đang giảng dạy tại trường Đại học New York (Mỹ) và là một trong số 2.000 nhân vật đã hiện tặng mẫu ADN của mình cho BGI.

Theo ông Miller, từ những năm 1990, Trung Quốc đã bắt đầu sử dụng phương pháp siêu âm để phát hiện dị tật của thai nhi trước sinh và tới gần đây, họ đã chi rất nhiều tiền để nghiên cứu về gen của loài người nhằm tìm ra loại gen nào khiến con người thông minh hơn.

Viện BGI Thâm Quyến là trung tâm nghiên cứu gen lớn nhất ở Trung Quốc và cũng có thể là lớn nhất trên thế giới. Viện nghiên cứu này không chỉ tập trung tìm hiểu gen của con người mà còn xem xét gen của nhiều loài động, thực vật và bất cứ thứ gì có liên quan đến lợi ích kinh tế cũng như thuộc mối quan tâm của giới khoa học.

Cách đây vài ngày, BGI đã gửi một thư điện tử cho ông Miller để thông báo rằng họ gần như hoàn tất việc giải trình tự gen cho Dự án Di truyền học liên quan đến nhận thức có sử dụng mẫu ADN của ông và rằng kết quả cuối cùng sẽ có trong nay mai.
 - 1
Viện nghiên cứu gen BGI của Trung Quốc ở Thâm Quyến. Ảnh: Vice
Về việc tuyển chọn mẫu ADN phục vụ nghiên cứu, ông Miller nhận định, BGI dường như quan tâm nhất tới những người có gốc gác Trung Quốc và châu Âu. Về cơ bản, họ tuyển chọn các mẫu thông qua một hội nghị khoa học và giới thiệu bằng miệng. Ứng viên cũng sẽ phải cung cấp một số bằng chứng cho thấy bản thân thông minh như mình nói. Ứng viên cũng sẽ phải gửi cho họ CV hoàn chỉnh của mình, các ấn phẩm đã xuất bản, kết quả các bài kiểm tra IQ tiêu chuẩn, thông tin xác minh về nơi học đại học, ...
Phỏng đoán về ứng dụng của dự án BGI, ông Miller cho rằng, một khi các nhà nghiên cứu có trong tay thông tin về những gen quyết định trí thông minh của con người và một trứng đã thụ tinh, phân chia thành một số tế bào, họ có thể lấy mẫu một trong các tế bào đó để tìm ra trí thông minh mong muốn nếu nó được nuôi cấy và trở thành một con người.

Điều này có nghĩa là, bất kỳ cặp vợ chồng nào cũng có thể có nhiều trứng được thụ tinh trong phòng thí nghiệm bằng tinh trùng của cha và trứng của mẹ. Sau đó, các chuyên gia có thể kiểm tra nhiều phôi và phân tích xem phôi nào sẽ trở thành người thông minh nhất. Đứa trẻ ấy sẽ vẫn là con của cặp vợ chồng đó nếu họ có nó một cách tự nhiên, nhưng sẽ là đứa trẻ thông minh nhất trong số các con của bố mẹ nó. Đây không phải là kỹ thuật biến đổi gen hay thêm các gen mới, mà là quá trình sử dụng các gen đã có của cặp bố mẹ.

Qua nhiều thế hệ, theo cách này, trí thông minh của người dân do đó có thể được nhân lên gấp bội.

Ngay cả khi trí thông minh trung bình của một đứa trẻ chỉ tăng 5 điểm IQ, nó cũng đủ để tạo ra một khác biệt rất lớn xét về năng suất kinh tế, năng lực cạnh tranh của đất nước, số bằng sáng chế mà họ có, cách điều hành các doanh nghiệp cũng như mức độ đổi mới của nền kinh tế.
 - 2
Các chuyên gia của BGI gần như hoàn tất việc giải trình tự gen của 2.000 cá nhân nằm trong số những người thông minh nhất thế giới. Ảnh minh họa: Vice
Tuy nhiên, ông Miller nhấn mạnh, mặc dù nghiên cứu của BGI có thể mở ra một cánh cửa tiềm năng về kỹ thuật gen trong tương lai, nhưng sẽ mất nhiều thời gian hơn để biến nó thành hiện thực. Về thời điểm có thể áp dụng việc phân tích phôi trên quy mô lớn, nhà khoa học này cho rằng có thể trong 5 – 10 năm nữa hoặc ít hơn, phụ thuộc vào việc thú đẩy quá trình này như thế nào.

Theo ông Miller, trong lĩnh vực nghiên cứu gen, phương Tây tụt hậu tương đối xa sau Trung Quốc. Mặc dù sở hữu khả năng kỹ thuật, khả năng thống kê để phân tích dữ liệu như nhau, nhưng người Trung Quốc thu thập được dữ liệu ở quy mô lớn hơn nhiều và dường như có khả năng chuyển biến các phát hiện khoa học thành chính sách của chính phủ và kiểm tra gen thương mại dễ dàng hơn nhiều so với phương Tây.
Theo Tuấn Anh (Vietnamnet)

Virus mới gây chết người, nguy hiểm hơn SARS


Các chuyên gia tin rằng, coronavirus bắt nguồn từ loài dơi. Ảnh: Alamy
Các chuyên gia tin rằng, coronavirus 
bắt nguồn từ loài dơi. Ảnh: Alamy

Chủ nhật, 31/03/2013, 11:25 (GMT+7) 
 
Loại virus bí ẩn coronavirus nguy hiểm chết người hơn SARS, các nhà khoa học cảnh báo sau khi người Anh thứ hai vừa chết vì loại virus mới này, nâng tổng số ca thiệt mạng lên 11.
 
Loại coronavirus bí ẩn chủ yếu tấn công hệ hô hấp và được xác định 6 tháng trước. Nó xuất hiện lần đầu tiên ở Trung Đông.
Các nghiên cứu mới nhất cho thấy, không giống như SARS, loài virus mới tác động nhiều cơ quan khác nhau trong cơ thể, giết chết các tế bào cực kỳ nhanh chóng.
Phát biểu trên báo South China Morning Post của Hong Kong, nhà vi trùng học Yuen Kwok-yung nói rằng, nếu loại virus mới tiếp tục biến thể, nó có thể gây ra đại dịch chết người.
“Nó có thể nguy hiểm chết người hơn SARS. Virus SARS nhiễm vào rất ít dòng tế bào của người. Nhưng virus mới có thể nhiễm vào nhiều loại dòng tế bào và nhanh chóng tiêu diệt chúng”, ông Yuen nói.
Tổng cộng 17 người nhiễm virus mới, kể từ khi Tổ chức Y tế thế giới (WHO) đưa ra cảnh báo vào tháng 9 năm ngoái. Hầu hết những bệnh nhân này có mối liên lạc với Trung Đông.
Tuần này, một người đàn ông 73 tuổi đến từ Các tiểu vương quốc Ảrập thống nhất chết vì loại virus mới, WHO thông báo. WHO cũng xác nhận rằng, một nam giới Anh từng tới Ảrập Xêút và Pakistan tử vong tại một bệnh viên của Anh.
Các nhà khoa học chưa xác định được nguồn gốc của loài coronavirus mới. Tuy nhiên, nhiều chuyên gia tin rằng, nó bắt nguồn từ loài dơi. Những con vật có thể là vật chủ cho loại virus này gồm có khỉ, lợn, thậm chí thỏ.
Các nhà khoa học nói rằng, loài virus mới đến từ họ virus gây cảm lạnh thông thường và dẫn tới dịch SARS bùng nổ khắp thế giới hồi cuối năm 2003, khiến 775 người thiệt mạng.

Triệu chứng của nhiễm coronavirus bao gồm khó thở, sốt, ho và viêm phổi. Trong vòng 48 tiếng đầu tiên, coronavirus lây lan nhanh khắp cơ thể người bệnh, các bác sĩ nói. Nó cũng có thể tấn công thận.
WHO đang khuyến khích các chính phủ các nước theo dõi tất cả trường hợp nhiễm trùng đường hô hấp mức độ nặng, đặc biệt là nếu có dấu hiệu bất thường.

Thạch Vũ (theo News Online, SCMP)

Việt Nam đã có thể chữa u không cần mổ, xét nghiệm không cần lấy máu

http://petrotimes.vn/news/vn/xa-hoi/viet-nam-da-co-the-chua-u-khong-can-mo-xet-nghiem-khong-can-lay-mau.html

(Petrotimes) - Việt Nam đã có tổ hợp thiết bị FUS-MRI để điều trị u xơ tử cung, u xương, u vú, u tuyến tiền liệt… mà không cần phẫu thuật. Đây là thiết bị đầu tiên ở Việt Nam và là chiếc thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á.

Điều trị u không cần phẫu thuật

Ở Việt Nam, những người mắc các chứng bệnh về khối u luôn gặp nhiều khó khăn trong việc điều trị, thậm chí duy trì tình trạng sức khỏe. Việc chữa trị trở nên tốn kém, phức tạp và kéo dài hàng năm trời. Chỉ có những gia đình có điều kiện kinh tế khá giả thì mới có thể đi đến các nước có nền y học phát triển trong khu vực như: Thái Lan, Singapore để sử dụng các dịch vụ y tết chất lượng cao.

Tổ hợp thiết bị FUS-MRI đầu tiên được nhập vào Việt Nam mang theo nhiều tính năng mà các hệ thống trong nước chưa có được. Trong quá trình điều trị, thiết bị cộng hưởng sẽ xác định vị trí khối u, sau đó máy tự động lập trình sử dụng năng lượng siêu âm để tiêu diệt khối u mà không phải mổ xẻ. Sau điều trị, bệnh nhân có thể làm việc ngay vì không đau đớn, không mệt mỏi.

Tổ hợp FUS-MRI là thiết bị y học hàng đầu thế giới.

Phương pháp điều trị này sử dụng sóng siêu âm tần số cao dưới hướng dẫn của hình ảnh cộng hưởng từ của tổ hợp thiết bị FUS-MRI. Các chỉ định điều trị hiện nay là các bệnh như u xơ tử cung có triệu chứng, lạc nội mạc trong cơ tử cung, điều trị giảm đau trong ung thư di căn xương...

Trong quá trình điều trị u xơ tử cung, bệnh nhân vẫn tỉnh táo, chỉ cần dùng một liều an thần nhẹ giúp giảm lo lắng, hạn chế cử động.

Phương pháp điều trị này có tỷ lệ biến chứng thấp, phỏng nhẹ ở vùng da là tác dụng phụ hiếm gặp. Vài giờ sau điều trị, người bệnh có thể về nhà (không cần phải theo dõi tại bệnh viện) và có thể sử dụng một số thuốc không kê toa giúp giảm đau nhức ở vùng chậu, chân hay vùng lưng.

Sau điều trị 3 tháng, nhiều bệnh nhân có thai và sinh con bình thường. Theo nghiên cứu, phương pháp này có thể phá hủy trên 60% thể tích khối u, cho kết quả điều trị tốt so với các phương pháp khác cũng như sau 2 năm điều trị. Hiện giá 1 lần điều trị trọn gói là 35 triệu đồng.

Xét nghiệm máu… không cần lấy máu

Việc xét nghiệm máu có thể xem là một "thử thách" với những người đi khám bệnh. Không chỉ gây đau, việc lấy máu kiểu truyền thống còn phải tuân thủ nhiều quy trình về an tòan, vệ sinh và dễ xảy ra lây nhiễm…

Thiết bị xét nghiệm máu không cần lấy máu được gọi bằng thuật ngữ chuyên ngành là "xét nghiệm không xâm nhập". đây là công nghệ xét nghiệm tiên tiến hàng đầu trên thế giới, không chỉ chưa từng có ở Việt Nam mà cả ở các nước Đông Nam Á.

Công dụng của máy xét nghiệm máu không lấy máu là khi xét nghiệm trong vòng 5 - 10 phút máy cho kết quả từ 117 - 160 thông số và máy tự động đưa ra kết luận tình trạng sức khỏe của người xét nghiệm từ đó giúp các bác sĩ tổ chức khám chuyên sâu nhằm điều trị chính xác các bệnh có thể có.

Giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Văn Hiển – Nguyên Viện trưởng Viện Da liễu Việt Nam, Nguyên Chủ tịch Hội Da liễu Việt Nam cho biết: "Tôi đã có nhiều dịp, đi nhiều nơi trên thế giới, trong đó có các nước Mỹ, Canada, Nhật Bản… và từng mong mỏi nước ta có những thiêt bị hiện đại như thế. Và việc Việt Nam có được thiết bị chữa u xơ không cần mổ và xét nghiệm không cần lấy máu thực sự là một bước tiến lớn của y học nước nhà".

Được biết, ở Việt Nam, 2 thiết bị tiên tiến trên hiện nay (10/2012) chỉ có tại Bệnh viện Đa khoa Bảo Sơn, 52 Nguyễn Chí Thanh, Hà Nội.

Hoàng Thắng

Lời giải hiện tượng trẻ 'bú mẹ là chết'

> Rối loạn chuyển hóa khiến bé sơ sinh bú sữa là chết
> Đình chỉ điều dưỡng vụ 'trẻ tử vong do tiêm sai thuốc'

Từng có gia đình sinh được 5 - 6 trẻ nhưng lần lượt đều tử vong, thường ở một độ tuổi nào đó và cùng một bệnh cảnh, khiến bác sĩ và người nhà hoang mang. Y học nay đã xác định được đây là chứng rối loạn chuyển hóa bẩm sinh.

Một bé bị rối loạn chuyển hóa bẩm sinh đã được cứu sống. Đến nay bé phát triển hoàn toàn bình thường. Trước đó, một người chị song sinh và người anh trai của bé không được chẩn đoán đúng bệnh đã mất. Ảnh: Bệnh viện cung cấp
Một bé bị rối loạn chuyển hóa bẩm sinh đã được cứu sống. Đến nay bé phát triển hoàn toàn bình thường. Trước đó, một người chị song sinh và người anh trai của bé không được chẩn đoán đúng bệnh đã mất. Ảnh: Bệnh viện cung cấp.

Như trường hợp một gia đình ở Hải Phòng, có con 9 tháng tuổi nhập Bệnh viện Nhi trung ương trong tình trạng ỉa chảy, hôn mê sâu, da bị tổn thương nặng. Gia đình cho biết, người chị song sinh với bé này đổ bệnh cùng thời điểm với em và đã chết ở bệnh viện tỉnh. Trước đó, một người anh trai cũng chết khi được 11 tháng tuổi với các dấu hiệu tương tự.

Các bác sĩ nhanh chóng xác định đây là chứng bệnh rối loạn chuyển hóa bẩm sinh. Bé này bị bệnh thiếu các enzyme carboxylase, khiến cơ thể không thể chuyển hóa được chất axit amin, tổng hợp axit béo và glucose... Khi cấp cứu, bệnh viện đã truyền đường glucose, uống thuốc biotin, tạm nhịn ăn trong 24 giờ đầu cho bé.

Sau đó cho em bé ăn lại bình thường và uống thuốc biotin. Hiện nay, em bé này được 7 tuổi, phát triển bình thường với chế độ ăn như mọi người. Mỗi ngày uống thêm 5mg thuốc biotin. Gia đình được tư vấn cách phòng và phát hiện kịp thời các triệu chứng của cơn cấp để đưa trẻ đến bệnh viện.

Tương tự, một gia đình ở Quảng Bình sinh được 2 con thì cả hai đều bị rối loạn chuyển hóa bẩm sinh, dạng bệnh thiếu Betaketothiolase. Người con đầu nhập viện khi 12 tháng tuổi trong tình trạng nguy kịch, kịp thời được chữa trị. Bé thứ 2 được tiên liệu và điều trị ngay sau sinh. Hiện nay cả hai bé phát triển như trẻ bình thường, trong chế độ ăn hạn chế đạm.

Lại có những dạng khác của bệnh rối loạn chuyển hóa (dù rất hiếm) khiến trẻ không được hoặc phải hạn chế bú mẹ. Đó là trường hợp một bé gái 9 tháng tuổi, ở Hải Phòng bị bệnh RLCH axit propionic máu, nhập viện trong tình trạng hôn mê sâu. Gia đình cho biết từ khi 3 tháng tuổi, cứ nửa tháng là bé bị một đợt nôn, sức khỏe yếu dần. Sau khi được cấp cứu, bé được chỉ định hạn chế bú sữa mẹ và kèm theo sữa đặc biệt của bệnh viện. Chế độ ăn hạn chế đạm và tăng cường thêm coenzym.

Theo bác sĩ Nguyễn Ngọc Khánh, khoa Nội tiết - Chuyển Hóa - Di truyền (Bệnh viện Nhi trung ương), xuất phát từ thực tế có không ít gia đình mất con khi còn bé mà không rõ nguyên nhân, từ năm 2005 Bệnh viện Nhi đã có chương trình sàng lọc nguy cơ cao các bệnh rối loạn chuyển hóa bẩm sinh để nghiên cứu về bệnh này.

Đặc điểm của bệnh là cơ thể thiếu enzyme nào thì sẽ gây ra bệnh rối loạn chuyển hóa đó và hiện nay thế giới phát hiện có hơn 500 loại bệnh khác nhau. Tuy tỷ lệ trẻ sinh ra mắc của một loại bệnh về rối loạn chuyển hóa rất hiếm nhưng khi cộng tổng lại thì tỷ lệ trẻ mắc bệnh này nhiều hơn, từ 1/300 đến 1/500 trẻ sinh ra. Chính vì thế năm 2009, Tổng Cục dân số đã phối hợp Bệnh viện Nhi thực hiện đề tài sàng lọc trẻ bị mắc bệnh rối loạn chuyển hóa bẩm sinh.

Theo đó, từ năm 2005 đến nay, Bệnh viện đã sàng lọc được gần 1.300 bé có nguy cơ bị bệnh này và xác định được 133 trẻ mắc bệnh ở 21 loại bệnh khác nhau, trong đó đa số là các rối loạn về chuyển hóa axit hữu cơ và axit amin (đạm). Cứu sống được 60 bệnh nhân và có 30 bệnh nhân trong số này hoàn toàn phát triển bình thường. .

Có thể hiểu, rối loạn chuyển hóa bẩm sinh là sự bất thường về chuyển hóa các chất trong cơ thể. Thông thường thức ăn vào cơ thể tồn tại dưới 3 dạng đường, đạm, mỡ. Chúng được chuyển hóa đi nuôi cơ thể nhưng vì thiếu các enzyme (hoặc các chất đồng vận và các yếu tố xúc tác) làm cho quá trình chuyển hóa bị tắc nghẽn.

Lúc cơ thể khỏe mạnh thì việc thiếu một enzyme nhỏ sẽ được bù trừ nhưng khi cơ thể ốm hay bị sang chấn mạnh, khiến chỗ bị tắc không thể lưu thông. Chất không được chuyển hóa bị thừa, gây độc cho cơ thể, làm trẻ có biểu hiện bệnh.

"Cơ chế gây bệnh trên dễ dẫn đến hiểu lầm là tại sao bé chỉ bú sữa mẹ mà bị nguy kịch. Ở đây phải hiểu rằng không phải do bú sữa mẹ khiến trẻ chết mà là do các chất cơ thể không thể chuyển hóa được gây hại. Cho nên dù là sữa mẹ hay sữa gì, thức ăn gì mà chất đó vào cơ thể bị thừa, khiến cơ thể trẻ không chuyển hóa được thì đều nguy hiểm", bác sĩ Khánh giải thích.

"Chính vì thế trong điều trị cho những trẻ mắc bệnh này, ngoài hạn chế các chất thừa gây độc cho cơ thể, đồng thời cung cấp các chất thiếu, tăng cường cung cấp enzyme thay thế, uống thuốc để tăng cường hoạt động của enzyme, tăng cường đào thải chất thừa (chất độc) thì sữa mẹ luôn là lựa chọn đầu tiên trong chế độ ăn cho những bệnh nhân bị rối loạn chuyển hóa bẩm sinh", bác sĩ cho biết thêm.

Vì tính đa dạng, phức tạp của từng loại bệnh trong chứng rối loạn chuyển hóa nên ngay khi nhập viện, bé sẽ được cách ly sữa mẹ từ 24 đến 48 tiếng cho ổn định. Sau đó, căn cứ vào từng thể bệnh, các bác sĩ sẽ quyết định có nên cho bé tiếp tục dùng sữa mẹ hay không và nếu dùng thì phải dùng như thế nào.

Bác sĩ cũng khẳng định, đa số rối loạn chuyển hóa là di truyền lặn. Khả năng mắc bệnh mỗi lần sinh là 25%. Đời sau vẫn có thể mắc bệnh nếu người bị rối loạn chuyển hóa lấy người cũng mang gene bệnh. Hiện nay, nước ta vẫn chưa chẩn đoán trước sinh được bệnh này song các bác sĩ có thể tư vấn cho những gia đình có tiền sử.

"Bệnh này thường phát triển ở trẻ dưới 12 tháng tuổi, cũng không ít trường hợp bị ngay sau sinh. Do đó, khi thấy con đang khỏe mạnh, đột nhiên bỏ bú, li bì, hôn mê, co giật hoặc có các biểu hiện tái phát, triệu chứng thần kinh thoái triển, chậm phát triển tinh thần vận động hoặc khi gia đình có tiền sử những trẻ chết bất thường thì nên cho con đi kiểm tra ngay", bác sĩ Nguyễn Ngọc Khánh cảnh báo.

Theo Phan Dương
VnExpress

Kinh ngạc lớp học khám phá bộ não ở Hà Nội

Dù cố gắng kiểu gì, xoay ngang, vặn ngửa, học viên khỏe mạnh này cũng không đứng lên nổi.

Quá trình trao đổi, giải mã hiện tượng mà chúng ta vẫn gọi là vong nhập, ma nhập với Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân, tôi nhận thấy rằng, hầu hết đó chỉ là hiện tượng ám thị.

Khi học viên này tự ám thị cánh tay cứng như thép, thì không ai có thể kéo xuống được
Khi học viên này tự ám thị cánh tay cứng như thép, thì không ai có thể kéo xuống được .
Ám thị có 2 loại, gồm ám thị truyền từ ngoài vào não, và ám tự ám thị do người đó tự nghĩ ra, tự huyễn hoặc. Hai chữ ám thị quả thực là cánh cổng mở ra bộ não bao la, huyền diệu của con người. Hai chữ đó cũng là những bí mật đầu tiên để đi vào thế giới thôi miên rộng lớn.

Để thực sự hiểu ám thị và bộ não con người, tôi đã đăng ký tham gia mấy buổi giảng dạy của Thạc sĩ thôi miên y khoa Nguyễn Mạnh Quân, tại Nhà văn hóa Phường Yên Phụ (Tây Hồ, Hà Nội).

Mới 8 giờ sáng, căn phòng tầng 2 đã có cả trăm học viên, trẻ có, già có, nam nữ đủ cả, ngồi trật tự chờ đợi chuyên gia Nguyễn Mạnh Quân.

Dáng người nhỏ nhắn, nhanh nhẹn, khuôn mặt tươi vui, anh cúi chào mọi người. Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân mời một học viên nữ trong lớp ngồi trên chiếc ghế, trước mặt các học viên.

Anh bảo cô gái nhắm mắt lại. Căn phòng yên ắng, nghe rõ tiếng thở của mọi người. Giọng nói anh Quân vang lên đều đặn, đưa thiếu nữ vào trạng thái thôi miên.

Truyền ám thị xong, anh Quân bảo: "Bây giờ bàn tay phải của em sẽ dính chặt vào đùi". Anh bảo cô gái mở mắt ra. Tay trái cô giơ lên vuốt tóc, nhưng cố gắng thế nào cũng không nhấc nổi tay phải.

Anh tiếp tục đưa cô gái vào trạng thái thôi miên và truyền ám thị rằng "em không nhớ tên của mình". Đưa cô gái ra khỏi trạng thái thôi miên, Thạc sĩ Quân hỏi đi hỏi lại, nhưng cô gái đăm chiêu kiểu gì cũng không nhớ nổi tên mình. Trong khi đó, tên anh em, bạn bè, bố mẹ, thì cô gái này kể vanh vách.

Sau khi truyền ám thị,cô gái này cũng không thể nhớ được tên mình nữa
Sau khi truyền ám thị,cô gái này cũng không thể nhớ được tên mình nữa .
Khi Thạc sĩ Quân hóa thành thầy bùa đầy uy lực, với
Khi Thạc sĩ Quân hóa thành thầy bùa đầy uy lực, với "lá bùa" dán vào ngực học viên... .
..thì học viên này không thể đứng lên được.
..thì học viên này không thể đứng lên được. .
Chỉ đến khi Thạc sĩ Quân trả lại cái tên Dung cho cô gái xinh đẹp này, thì cô mới chợt nhớ ra tên mình.

Điều kỳ cục như thể chỉ có trong xiếc ảo thuật, ấy là Thạc sĩ Quân làm biến mất con số 4 trong đầu cô học viên tên Dung. Khi anh đi vào tiềm thức của cô gái, gỡ bỏ con số 4, đến khi tỉnh lại, cô đếm bàn tay mình (1,2,3,5,6), thấy có tới 6 ngón. Đếm đi đếm lại, cũng không thấy con số 5 đâu cả. Chỉ đến khi anh đưa con số 4 vào đầu, cô mới đếm được bình thường.

Để tiếp tục khẳng định sự kỳ diệu của ám thị, Thạc sĩ Quân gọi một học viên nam. Bằng những lời nói lúc trầm, lúc bổng, âm thanh huyền bí, anh này rơi vào trạng thái thôi miên, ngồi bất động trên ghế.

Thạc sĩ Quân hóa thân thành một thầy bùa đầy uy lực. Anh viết vài chữ loằng ngoằng lên một tờ giấy màu vàng và nói với học viên rằng, đó chính là một lá bùa. Anh đặt "lá bùa" lên ngực học viên và khẳng định rằng "lá bùa" này có sức mạnh ghê gớm, khiến anh không thể đứng lên được.

Quả nhiên, khi Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân đưa học viên này ra khỏi trạng thái thôi miên, yêu cầu anh dứng dậy, thì điều kỳ lạ xảy ra, mông anh này như dính chặt vào ghế. Dù cố gắng kiểu gì, xoay ngang, vặn ngửa, học viên khỏe mạnh này cũng không đứng lên nổi. Tuy nhiên, sau khi gỡ ám thị khỏi não bộ, học viên này đã đứng lên một cách bình thường.

Thạc sĩ Quân bảo rằng, chỉ một chút kỹ năng rất nhỏ, ai cũng có thể trở thành một ông thầy pháp, thầy bùa đầy quyền năng để đi bịp những người nhẹ dạ, cả tin. Đó chính là phương pháp thôi miên cổ điển, sử dụng những thủ thuật và lợi dụng đức tin của con người. Qua đây, anh cũng khuyên mọi người tuyệt đối không tin mấy ông thầy bùa, thầy pháp.

Không cần đến mức đưa học viên vào trạng thái thôi miên sâu, cũng có thể kiểm nghiệm sức mạnh vô song của bộ não. Thạc sĩ Quân gọi một học viên lên thử. Theo hướng dẫn của anh Quân, anh này hét lên 3 lần: "Tôi là kẻ yếu đuối".

Hét xong, anh này giơ tay ngang vai, Thạc sĩ Quân chỉ ấn nhẹ, đã rơi thõng xuống. Thế nhưng, khi anh này tập trung tư tưởng, nghĩ cánh tay mình là thanh sắt, không gì khuất phục được, thì lần lượt từng người khỏe nhất, cũng không thể kéo xuống được. Thậm chí, 2 người đu lên cánh tay của anh ta, cũng không rơi xuống.

Các học viên nữ cũng giơ tay lên và truyền ám thị cánh tay là thanh thép và các học viên nam dùng đủ mọi cách vẫn không bẻ gập được tay họ.

Còn vô vàn những thí nghiệm, mà mỗi lần thực hiện, cả trăm con người cứ mắt chữ A, miệng chữ O, không hiểu vì sao, chỉ bằng những lời nói, mà thay đổi toàn diện một con người như vậy. Người thông minh có thể mất trí nhớ, người khỏe như lực sĩ cũng có thể mất sạch sức lực. Nhưng với những ám thị tích cực, thì một người yếu đuối bỗng thành lực sĩ.

Lúc này, tôi mới thực sự hiểu, vì sao cô gái dân quân Ngô Thị Tuyển có thể vác hòm đạn nặng gần tạ, gấp đôi trọng lượng cơ thể, chạy băng băng dưới làn đạn quân thù.

Và cũng đến lúc đó, tôi và những học viên của lớp học đặc biệt này, mới bắt đầu hiểu được sức mạnh khủng khiếp của bộ não con người.

Và lúc này, mọi người cũng mới hiểu, từ trước đến nay, chúng ta ứng xử chưa đúng với bộ não dễ tổn thương.

Và tôi càng tin vào điều mà Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân khẳng định, đó là nếu đi "áp vong", "nhập hồn" không đúng cách, thì tức là bộ não đã tổn thương, đã thành người có vấn đề về thần kinh.

Ví như cô gái học viên được anh Quân thử nghiệm, nếu không gỡ ám thị ra khỏi bộ não, thì cô sẽ không biết có số 5 tồn tại trên đời, cũng không thể nhớ được tên mình là gì.

Tất nhiên, những người bị truyền ám thị là vong, ma, là quỷ, là rắn thần vào não, và ám thị đó không được gỡ ra kịp thời, bộ não dễ tổn thương nhưng đầy uy lực ấy, cũng sẽ biến người đó thành ma, quỷ, thành kẻ thần kinh.

Bất kỳ ai cũng đều rơi vào trạng thái gọi là thôi miên hàng ngày, nhưng chúng ta không hiểu. Trạng thái đang dần chìm vào giấc ngủ chính là trạng thái thôi miên.

Khi một người đang trong trại thái nửa tỉnh, nửa mơ, nếu phải tiếp nhận những thông tin xấu (ám thị xấu) một cách đột ngột, sẽ rất nguy hiểm. Đặc biệt, những đứa trẻ trí não chưa phát triển hoàn toàn, nếu đang nửa tỉnh nửa mê mà mắng chửi, oán trách đột ngột, đứa trẻ đó có thể lệch lạc về trí tuệ, trở lên tự kỷ hoặc trầm cảm.

Hàng ngàn người đi
Hàng ngàn người đi "áp vong", không biết rằng đã tự làm tổn thương bộ não của mình .

Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân đã từng phải điều trị một ca bệnh đặc biệt, mà kể ra, khó ai có thể tin được.

Đó là một cô gái con nhà khá giả, có trình độ đại học, khá thông minh. Thế nhưng, một hôm, cô gái 28 tuổi này bỗng mất sạch trí nhớ. Cô không nhớ mình là ai, đến từ đâu, cũng không nhận ra bố mẹ, anh em, bạn bè nữa.

Gia đình đưa đi chữa trị nhiều nơi, nhiều cách, xong không có hiệu quả. Gia đình buộc phải đưa cô vào Bệnh viện Tâm thần ở Biên Hòa (Đồng Nai) điều trị.

Khi đưa cô gái này vào trạng thái thôi miên, Thạc sĩ Quân mới phát hiện ra rằng, cô bị xóa trí nhớ một cách rất khó tin.

Bị người yêu bỏ, cô gái rơi vào trạng thái đau khổ cùng cực. Cô lang thang đi nhiều nơi và cuối cùng ngồi lại ở một công viên.

Cô ngồi trên ghế đá và đau khổ nghĩ lại mọi chuyện. Do mệt mỏi, nên cô rơi vào trạng thái mơ màng. Đúng lúc đó, có người đến gần và nói: "Cô gái này bị mất trí rồi".

Bộ não nhạy cảm trong trạng thái thôi miên của cô gái đã ngay lập tức tiếp nhận ám thị đó và trí nhớ của cô vô tình bị xóa sạch. Sự tác động của ám thị nhiều khi rất đơn giản, nhưng lại vô cùng khó chữa trị, nếu không tìm được nguyên nhân.

Đó là một trong số hàng trăm ví dụ, mà Thạc sĩ Nguyễn Mạnh Quân có thể kể ra, trong quá trình điều trị bệnh nhân của mình.

Thật vô cùng nguy hiểm, nếu ta không thực sự hiểu cặn kẽ bộ não của mình.

Theo Phạm Ngọc Dương
VTC News

Loạt ảnh phơi bày "yến tiệc" sừng tê giác của đại gia Việt

Thế giới xa hoa gắn với sừng tê giác của giới nhà giàu Việt Nam đã được nhiếp ảnh gia Mỹ Justin Mott phơi bày qua loạt ảnh đăng tải trên trang Justinmott.photoshelter.com. 
Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Nhu cầu sử dụng sừng tê giác đang tăng mạnh tại Việt Nam những năm gần đây. Ảnh: Justinmott.photoshelter.com

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Nhu cầu này xuất phát từ những quan niệm cổ truyền của y học Trung Quốc, cho rằng sừng tê giác là một loại thuốc bồi bổ sức khỏe và đặc biệt là có khả năng kích dục hữu hiệu.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Cùng với sự thay đổi về kinh tế, sừng tê giác đã xuất hiện trong các bữa tiệc dành cho giới nhà giàu Việt Nam.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Tại đây, một loại đồ uống đặc biệt trở thành tâm điểm của mọi sự chú ý: Nước hoặc rượu trắng pha bột sừng tê giác.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Để có loại bột này, sừng tê giác thô sẽ được mài bằng một loại đĩa gốm chuyên dụng. Có thể nhận ra loại đĩa này qua hình con tê giác trên thành đĩa.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Bên cạnh các đại gia thừa tiền, một nhóm người khác tiêu thụ sừng tê giác vì tin vào một câu chuyện cổ tích, rằng sừng tê giác có thể chữa được mọi loại bệnh ung thư.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Ngoài những người trực tiếp sử dụng, không ít người dùng sừng tê giác như những "cống phẩm" để hối lộ cấp trên, người có chức quyền, hoặc "bôi trơn" các thương vụ làm ăn với đối tác.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Dù sử dụng sừng tê giác vào mục đích gì, họ đã lờ đi một thực tế nhức nhối đang diễn ra: một loài sinh vật quý hiếm đã tồn tại trên trái đất 50 triệu năm đang đứng trước nguy cơ tuyệt chủng.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Hầu hết sừng tê giác tại Việt Nam có nguồn gốc từ hoạt động săn trộm ở Nam Phi. Chúng sẽ trải qua nhiều khâu trung gian khác nhau trước khi bị tuồn về ViệtNam bằng đường hàng không. Đã có nhiều vụ bắt giữ trong quá trình vận chuyển mặt hàng cấm này về Việt Nam.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Bị luật pháp ngăn cấm, cách duy nhất để khách hàng tiếp cận sừng tê giác là thông qua thị trường chợ đen.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Giá sừng tê giác bán tại Việt Nam khoảng 128 triệu đồng/1 lạng. Đây là con số điên rồ ở một đất nước mà thu nhập bình quân đầu người chỉ khoảng 35 triệu đồng/năm

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Còn điên rồ hơn nữa khi số tiền đó được bỏ ra cho một thứ mà khoa học đã chứng minh là có giá trị y học không hề cao hơn sừng trâu, sừng bò. Sự sùng bái sừng tê giác đến mức mê muội đã khiến con người bỏ qua tất cả.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Không chỉ dùng tươi, sừng tê giác còn được bào chế thành thuốc vỉ. Có thể tìm mua chúng trong khu phố buôn bán thuốc cổ truyền ở Hà Nội.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Nguy cơ bị mắc lừa của người mua sừng tê giác là rất cao. Theo Viện Sinh thái và tài nguyên sinh vật, cơ quan chuyên giám định mẫu vật, 70% mẫu vật sừng tê giác ở Việt Nam là giả.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Cũng theo ghi nhận của các chuyên gia, Việt Nam là quốc gia duy nhất trên thế giới mà đĩa mài sừng tê giác được sản xuất hàng loạt.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Làng nghề gốm Bát Tràng là trung tâm sản xuất thứ dụng cụ này. Tại đây, việc buôn bán đĩa mài sừng tê giác diễn ra công khai.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Chỉ tính riêng tại một cơ sở sản xuất, khoảng 30.000 chiếc đĩa đã được xuất xưởng, một con số nói lên nhiều điều.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Các nhà bảo tồn cho rằng, nhu cầu sừng tê giác từ Việt Nam là một nguyên nhân quan trọng đẩy tê giác châu Phi đến bờ vực tuyệt chủng.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Chỉ có một cách duy nhất để chấm dứt nạn săn bắn tê giác cũng như các loài động vật quý hiếm khác, đó là chấm dứt việc sử dụng chúng trong y học cố truyền.

Loat anh phoi bay yen tiec sung te giac cua dai gia Viet

Điều này đỏi hỏi sự thay đổi tận gốc rễ những quan niệm ấu trĩ của người Việt. Ảnh: Justinmott.photoshelter.com

Viet Bao.vn (Theo Kiến thức)

Bốn sự thật về ung thư đại tràng

1.Ung thư đại tràng là một trong những bệnh ung thư thường gặp nhất trong cộng đồng

Đúng thế. Ung thư đại tràng là một bệnh lý phổ biến. Tại Mỹ, hàng năm có khoảng trên 200.000 người mắc bệnh và khoảng gần 60.000 người tử vong vì ung thư đại tràng. Đây là căn bệnh đứng hàng đầu trong ung thư đường tiêu hóa tại các quốc gia Âu và Mỹ.

Ở Việt Nam, ung thư đại tràng là một trong ba loại ung thư hàng đầu thuộc hệ tiêu hóa. Theo Hội Ung thư TP Hồ Chí Minh, ung thư đại tràng nằm trong số 5 bệnh ung thư có số người mắc cao nhất. Khảo sát mới nhất về tình trạng ung thư tại TP Hồ Chí Minh cho thấy, ung thư đại tràng xếp thứ 4 ở nam giới (sau ung thư gan, phổi và dạ dày) và thứ 3 ở nữ giới (sau ung thư cổ tử cung và ung thư vú). Nhưng cũng cần biết rằng, di căn của ung thư đại tràng lại nằm ở gan và phổi.

Dự đoán trong vài năm tới, số người mắc căn bệnh này sẽ tăng nhanh do lối ăn uống ít chất xơ, giàu thịt và các món ăn nhanh ngày một thịnh hành. Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, trong số bệnh nhân tử vong do ung thư tại Mỹ thì có tới 60% do ung thư đại tràng, tại Ba Lan con số này vượt 75%.

Hiện nay, y học chưa biết chính xác nguyên nhân gây ung thư đại tràng. Tuy nhiên, có những yếu tố nguy cơ chắc chắn làm dễ mắc bệnh hơn như tuổi tác (trên 9% bệnh nhân ung thư đại tràng là trên 50 tuổi), có tiền sử bị polip đại tràng, có tiền sử mắc bệnh viêm loét đại tràng, có tiền sử mắc bệnh viêm loét đại tràng và bệnh Crohn, trong gia đình có người mắc bệnh ung thư đại tràng hay đường ruột, chế độ ăn – uống nhiều chất mỡ động vật, thịt màu đỏ, nghèo chất xơ nguồn gốc thực vật, ít vận động, béo phì, uống nhiều rượu và hút nhiều thuốc lá…

2. Ung thư đại tràng là căn bệnh có những triệu chứng ban đầu không rõ ràng?

Chính xác. Ung thư đại tràng có thể khởi phát ở bất cứ vị trí nào trên đại tràng, từ lớp trong cùng của thành ruột (niêm mạc đại – trực tràng), sau đó xâm lấn ra phía ngoài qua các lớp khác của thành ruột. Ung thư ở mỗi vị trí trên đại tràng sẽ có biểu hiện triệu chứng khác nhau – thông thường là có máu trong phân. Trong đại đa số các trường hợp, ung thư đại tràng phát triển âm thầm trong nhiều năm. Trên 95% các trường hợp ung thư đại tràng là loại ung thư tế bào tuyến, nó bắt nguồn từ tế bào của niêm mạc ruột già.

Ở giai đoạn sớm, triệu chứng thường không rõ, nhiều khi người bệnh chỉ đau bụng nhẹ, cũng có khi bị trướng hay đầy bụng, đau tức vùng bụng trước hoặc sau khi ăn. Triệu chứng thường gặp và có giá trị chẩn đoán là đi ngoài ra máu – nhất là ở những người ở độ tuổi 45 - 55; rối loạn tiêu hóa, có ngày bị táo bón, có ngày lại bi đi lỏng kiểu tiêu chảy. Những triệu chứng này thường bị người bệnh nhầm với bệnh trĩ hay rối loạn tiêu hóa do ăn – uống. Do vậy, có tới 85% bệnh nhân nhập viện đã bị ung thư đại tràng giai đoạn giữa hay đã bị di căn.

Theo khuyến cáo của Hiệp hội Ung thư Mỹ, muốn phát hiện sớm ung thư đại tràng cần thử phân, khi xuất hiện triệu chứng như có thay đổi thói quen đi vệ sinh, đau bụng dưới, mệt mỏi. Do căn bệnh nguy hiểm này rất phổ biến, nên mọi người ở tuổi 45 – 55 đi kiểm tra xét nghiệm định kỳ, như thử phân, nội soi đại tràng. Khi có những triệu chứng rối loạn đường tiêu hóa, ăn không tiêu, táo bón, đầy bụng, bị tiêu chảy, nhất là ở tuổi trên 40, thì cần khẩn trương đi khám. Theo Hiệp hội Ung thư Mỹ, khoảng 58% bệnh nhân bị ung thư giai đoạn II và di căn khi được chẩn đoán lần đầu tiên. Trên 85% số bệnh nhân mắc ung thư đại tràng bị di căn và tử vong do phát hiện chậm.

3. Phẫu thuật và hóa trị là liệu pháp hữu hiệu nhất trong điều trị ung thư đại tràng?

Đúng thế. Trên thực tế, cho đến nay chưa có loại thuốc nào được công nhận là có tác dụng với bệnh này. Tỷ lệ sống được 5 năm sau phẫu thuật là 90% nếu ung thư còn trong lòng ruột. 50% nếu ung thư đã ăn qua thành ruột, chưa ăn vào hạch, còn 30% khi khối u đã ăn vào hạch và chỉ 10% nếu đã di căn vào nội tạng, như gan và phổi.

Theo tiến sĩ Khoo Kei Siong, cố vấn cao cấp về ung thư học và điều trị thuộc bệnh viện Gieneagles (Singapore), biện pháp phẫu thuật cắt bỏ khối u là tối ưu cho loại ung thư này và sau đó là áp dụng liệu pháp hóa trị. Nguy cơ rủi ro của phẫu thuật (như chảy máu trong mô liên kết hay nhiễm trùng) nếu được các chuyên gia phẫu thuật tiến hành sẽ giảm 50 – 60%. Sau phẫu thuật cắt bỏ khối u, hóa trị có thể không cần thiết. Điều này phụ thuộc vào bệnh nhân đang bị ung thư ở giai đoạn nào. Ở giai đoạn II và III của bệnh, bệnh nhân phải được hóa trị để tăng khả năng phục hồi. Ở giai đoạn IV, hóa trị có tác dụng ngăn chặn sự phát triển của các tế bào ung thư. Không dùng xạ trị cho ung thư đại tràng vì dễ gây viêm nhiễm xạ cho các tạng trong ổ bụng.

Gần đây, đã có những loại thuốc mới trong hóa trị bệnh ung thư đại tràng không chỉ hiệu quả hơn mà tác dụng phụ tiêu cực cũng ít hơn. Do vậy, hóa trị liệu là phương pháp an toàn hơn cả. Oxaliplatin, Irinotecan, Cetuximab (Erbitux) và Acizumab (Avastin) là những loại thuốc mới hiệu quả trong biện pháp hóa trị liệu, một vài loại trong số này không hề gây rụng tóc. Đặc biệt, mới đây đã có loại thuốc viên đầu tiên chống ung thư đại tràng di căn mang tên Xeloda (Capecitabine), với liều dùng để uống 2 ngày/lần tại nhà. Nghiên cứu tại Đại học Texas (Mỹ) cho thấy, khi vào cơ thể thuốc kết hợp với một enzyme để biến thành 5-FU – một loại thuốc điều trị ung thư đã được sử dụng nhiều năm nay. Hiệu quả điều trị của Xeloda là tương đương với các thuốc hóa trị khác, trong khi tác dụng phụ rất ít, giúp cho sự điều trị không bị gián đoạn và bệnh nhân không phải nhập viện.

4. Thực phẩm có khả năng ngăn ngừa ung thư đại tràng?

- Đúng thế. Tiến sĩ Khoo Kei Siong, cố vấn cao cấp về ung thư học và điều trị thuộc bệnh viện Gleneagles (Singapore) cho biết, tại các quốc gia châu Á, tỷ lệ mắc bệnh ung thư đường tiêu hóa nói chung và đại tràng nói riêng ngày càng tăng cao. Dinh dưỡng hợp lý là biện pháp dễ thực hiện làm giảm tỷ lệ ung thư đại tràng. Nghiên cứu mới đây của Tổ chức Y tế Thế giới (WTO) đưa ra kết quả rất lạc quan rằng có thể phòng ngừa ung thư bằng thực phẩm. Các chuyên gia dinh dưỡng thuộc WHO đưa ra lời khuyên để giảm tỷ lệ ung thư đại tràng nên hạn chế tiêu thụ đạm động vật, giảm các chất béo nguồn gốc động vật và gia tăng nguồn đạm từ thực vật, tăng lượng chất xơ từ trái cây và rau xanh. Nghiên cứu gần đây của Singapore cho thấy, nguyên nhân khiến nhiều người Hoa sống tại nước này hay bị ung thư đại tràng chính là chế độ ăn có nhiều thịt màu đỏ và ít rau xanh. Nguy cơ này đã giảm đáng kể khi tăng lượng rau, đậu phụ trong khẩu phần ăn hàng ngày.

+ Dầu ô liu: Trong dầu ô liu có chứa chiết xuất zyflamend có khả năng kiềm chế sự tăng trưởng của tế bào ung thư. Gần đây các nhà khoa học thuộc Đại học Granada (Mỹ) còn phát hiện ra loại acid maslinic trong dầu ô liu và đã chứng minh được rằng acid maslinic có tác dụng điều hòa tăng sinh tế bào và có thể dùng điều trị ung thư đại tràng. Bằng cách ức chế tăng sinh tế bào, acid maslinic còn phát huy tác dụng phá hủy các tế bào ung thư đại tràng HT29. Đây là nghiên cứu đầu tiên về tác dụng phòng chống ung thư đại tràng của acid maslinic được công bố.

+ Đậu nành và ngũ cốc họ đậu: Đậu nành và các quả họ đậu là loại thực phẩm giàu chất xơ nhất. Ngoài dồi dào về chất xơ – có tác dụng kích thích nhu động ruột phòng ngừa ung thư đại tràng, hạt đậu nành còn chứa 8% nước, 5% chất vô cơ, 15 – 25% chất glucose, 15 – 20% chất béo, 35 – 40% chất đạm và nhiều axít amin và sinh tố khoáng chất cần thiết cho cơ thể. Sữa đậu nành nguyên chất, bảo đảm về chất lượng và vệ sinh thực phẩm là một trong những thực phẩm rất tốt cho việc ngăn ngừa ung thư đại tràng và các loại ung thư khác.

+ Cà rốt sống và rau sống: Theo nghiên cứu mới đây tại Italy cho thấy, cà rốt sống chứa một lượng lớn các hợp chất có khả năng chống lại bệnh ung thư đại tràng, trực tràng và ung thư vú. Rau sống cũng đem lại hiệu quả cao làm giảm nguy cơ mắc các loại ung thư này. Khảo cứu gần đây cho thấy, những người ăn cà rốt và rau sống 12 lần mỗi tuần đã giảm được 29% nguy cơ ung thư đại tràng, 18% ung thư trực tràng so với những người chỉ ăn 2 – 3 lần mỗi tuần.

+ Các sản phẩm làm từ bơ, sữa: Trong những sản phẩm này rất giầu chất béo thực vật và axít linoleic giúp giảm nguy cơ mắc ung thư đại – trực tràng. Một nghiên cứu tại Thụy Điển cho biết, người có lượng a–xít linoleic cao thì nguy cơ mắc bệnh ung thư đại tràng giảm tới trên 30% so với người có lượng a-xít này thấp. Đặc biệt, những người tiêu thụ nhiều pho-mai thì nguy cơ mắc bệnh rất thấp.

+ Dứa: Trong dứa có chứa hai phần từ hợp chất CCZ và CCS có khả năng kích thích hệ miễn dịch tấn công tế bào ung thư, kìm hãm khả năng di căn của các loại ung thư đại tràng ung thư vú, phổi và ung thư da.

+ Rau xanh và trái cây khác: Các loại rau xanh như bắp cải, súp lơ xanh, cải xoong và trái cây như táo, lê, kiwi, mận, đào, nho, dâu tây, dưa hấu… ngoài việc cung cấp chất xơ và vitamin cùng khoáng chất cho cơ thể còn có nhiều hợp chất có khả năng kìm hãm sự phát triển những tế bào ung thư đại tràng và hạn chế khả năng di căn của loại ung thư này.

+ Hành, tỏi: Chứa nhiều chất allicin có tác dụng tăng cường hệ miễn dịch, ngăn ngừa bệnh ung thư đường tiêu hóa./.
Cập nhật lần cuối:  23/03/2012 11:56:27 AM
 
www.dap.vn
 
Đây là loại ung thư hay gặp nhất ở nam giới, sau ung thư phổi. Nhiều nhà khoa học cho rằng đây là bệnh của sự no đủ, do ăn quá nhiều thịt và chất béo. Các thống kê cho thấy tỷ lệ ung thư đại tràng ở châu Á đang tăng nhanh cùng với sự tăng cao mức sống.

Tiên lượng của ung thư đại tràng phụ thuộc vào việc phát hiện được bệnh sớm hay muộn. Nếu phẫu thuật sớm khi bệnh chưa di căn sang cơ quan khác trong cơ thể, kết quả sẽ khả quan.

Thông thường khối u xuất phát từ thành của lòng ruột; từ từ phát triển, sau khoảng vài năm sẽ thành ung thư. Lúc đó, khối u thường lớn hơn 2 cm. Thông thường, ung thư phát triển qua tình trạng bướu ruột (polyp). Bệnh cũng có yếu tố di truyền. Nếu bố mẹ, anh chị em ruột bị ung thư đại tràng thì con cái, anh chị em ruột cũng có khả năng mắc.

Có những người bỗng nhiên thấy trên niêm mạc đại tràng của mình xuất hiện nhiều bướu kiểu polyp. Polyp có thể có cuống hoặc không, phát triển nhanh, chiếm phần lớn niêm mạc đại tràng. Điển hình là căn bệnh có tên bệnh polyp có tính chất gia đình, được gọi là polyp gia đình; phần lớn bệnh nhân sẽ chết vì ung thư đại tràng ở tuổi 35-40 nếu không được phát hiện sớm và chữa trị kịp thời khi polyp chưa thành ung thư.

Ngoài ra, người bị viêm đường ruột như bệnh "Crohn's", viêm đại tràng có loét... cũng dễ bị ung thư đại tràng. Những người bị ung thư vú, tử cung cũng dễ bị ung thư đại tràng hơn và ngược lại.

Ở giai đoạn sớm, triệu chứng bệnh thường không rõ, người bệnh bị đau bụng nhẹ, cũng có khi bị trướng hoặc đầy, đau tức bụng trước hoặc sau khi ăn. Triệu chứng thường gặp và có giá trị chẩn đoán là đi ngoài ra máu, nhất là những người ở tuổi 40-50. Tuổi này thường bị rối loạn đại tiện, có ngày bị táo bón, có ngày lại bị đi lỏng kiểu tiêu chảy. Nên nhớ là chảy máu của ung thư đại tràng rất ít và "kín đáo"; nhưng nếu kéo dài, người bệnh sẽ bị thiếu máu, cảm thấy mệt mỏi, khó thở.

Làm thế nào để phát hiện bệnh sớm? Theo khuyến cáo mới của Hội ung thư Mỹ, cả nam lẫn nữ nên đi khám bệnh tổng hợp hằng năm từ tuổi 50. Muốn phát hiện sớm ung thư, cần thử phân xem có chảy máu kín đáo không. Đây là triệu chứng sớm giúp chẩn đoán bệnh.

Nếu trong gia đình có người thân như cha mẹ, anh chị em ruột bị ung thư đại tràng hoặc bản thân mình cũng bị ung thư vú, ung thư tử cung, nên xin được khám xét về ung thư đại tràng. Đơn giản thì làm nội soi trực tràng, đại tràng chậu hông, khi cần mới làm nội soi cả đại tràng.

Về điều trị, phẫu thuật là phương pháp cơ bản. Trên thực tế, chưa có loại thuốc nào kể cả Tây y và Đông y được công nhận là có tác dụng với bệnh này. Tỷ lệ sống được 5 năm sau mổ là 90% nếu ung thư còn trong lòng ruột, 50% nếu ung thư đă ăn qua thành ruột, chưa ăn vào hạch, còn 30% khi u đã ăn vào hạch và 10% nếu đã di căn vào tạng.

Những trường hợp sau không nên mổ: tuổi đời quá cao, hơn 80-90 tuổi; sức khỏe suy sụp, quá yếu; có những bệnh lý tim, phổi hoặc gan; ung thư đã di căn tới một số cơ quan khác, có di căn hoặc cổ trướng.

Sau mổ, bệnh nhân phải dùng thuốc từ 6 tháng đến 1 năm.
Số lượt đọc:  3323  -  Cập nhật lần cuối:  23/03/2012 11:48:35 AM

Đau nhắc tới... bệnh

 

Xuất hiện mật ong giả chứa chì và kháng sinh độc hại


Thứ Năm, 21/03/2013 11:39
(NLĐO) - Giới chuyên gia an toàn thực phẩm Mỹ cảnh báo việc các nhà sản xuất mật ong Trung Quốc xuất khẩu mật ong qua nước thứ ba rồi đưa vào Mỹ nhằm che giấu nguồn gốc thật để trốn thuế, xem đó như sự gian dối mang tầm quốc tế.
Theo đài phát thanh Mỹ NPR, do mật ong xuất xứ từ Trung Quốc bị đánh thuế bán phá giá tại Mỹ nên các nhà xuất khẩu Trung Quốc đưa hàng sang Thái Lan hoặc nước khác, thay đổi nhãn hiệu, rồi từ đó đó xuất khẩu sang Mỹ.

Mật ong bán ở Mỹ có thể có chứa tạp chất độc - Ảnh minh họa từ Live Science


Trong khi đó, theo nguyệt san Wired của Anh, các chuyên gia an toàn thực phẩm đã phát hiện nhiều sản phẩm mật ong ở Mỹ không thực sự là mật ong. Thông thường, mật ong giả là hỗn hợp giữa mạch nha gạo hoặc bắp, mật đường và một chút mật ong thật.
Tệ hơn nữa, thông cáo báo chí của Bộ Tư pháp Mỹ cho rằng nhiều sản phẩm mật ong trên thị trường chứa các tạp chất độc hại như chì, kim loại nặng và dư lượng dược phẩm như chloraphenicol và thuốc kháng sinh.
Mới đây, hai công ty Mỹ là Honey Solution và Groeb Farms đã phải trả hàng triệu USD tiền phạt trong tai tiếng nhập mật ong với nhãn hiệu không đúng xuất xứ sau cuộc điều tra bộ tư pháp.
Tr. Lâm (Theo Live Science)

ĐỊA LONG


Vị thuốc đông y : ĐỊA LONG
Tên khác:
Vị thuốc Địa long còn gọi Thổ long (Biệt Lục), Địa long tử (Dược Tính Luận), Hàn hán, Hàn dẫn, Phụ dẫn (Ngô Phổ Bản Thảo), Cẩn dần, Nhuận nhẫn, Thiên nhân đạp (Nhật Hoa Chư Gia Bản Thảo), Kiên tàm, Uyên thiện, Khúc thiện, Thổ thiện, Ca nữ (Bản Thảo Cương Mục), Dẫn lâu, Cận tần, Minh thế, Khước hành, Hàn hân, Khưu (khâu) dẫn, Can địa long, Bạch cảnh khâu dẫn (Trung Quốc Dược Học Đại Từ Điển), Giun đất, Trùn đất (Dược Điển Việt Nam)
Tác dụng:
+ Đại giải nhiệt độc, hành thấp bệnh (Bản Thảo Giảng Nghĩa Bổ Di).
+ Thanh Thận, khứ nhiệt, thấm thấp, hành thủy, trừ thấp nhiệt ở Tỳ Vị, thông đại tiện thủy đạo  (Y Lâm Toản Yếu).
+ Trừ phong thấp, đờm kết, khứ trùng tích, phá huyết kết (Đắc Phối Bản Thảo).
+ Thanh nhiệt, trấn kinh, lợi niệu, giải độc (Trung Dược Học).
Chủ trị:
+ Trị sốt cao phát cuồng, động kinh co giật, hen phế quản, di chứng bại liệt nửa người, đau nhức do phong thấp, tiểu không thông.
Liều lượng: 8-12g. Trường hợp loét hạ chi mãn tính, dùng Giun đất tươi đâm nhuyễn với đường cát trắng đắp bên ngoài.
Kiêng kỵ:
+ Hư hàn mà không có thực nhiệt thì cấm dùng. Sợ Hành.
Đơn thuốc kinh nghiệm:
+ Trị thương hàn nhiệt kết 1-7 ngày, nổi cuồng nổi loạn thấy ma qủy muốn bỏ chạy: Khâu dẫn nửa cân bỏ đất bùn, lấy nước Đồng tiện nấu uống, hoặc dùng  sống gĩa vắt lấy nước cho uống (Trửu Hậu Phương).
+ Trị tinh hoàn sưng hoặc thụt vào trong bụng, đau nhức khó chịu, thân thể nặng nề, đầu không thể dậy được, bụng dưới nóng đau, co thắt muốn chết: Khâu dẫn 24 con, sắc với một đấu nước còn 3 thăng, uống ngay. Hoặc lấy Khâu dẫn thật nhiều, gĩa vắt lấy nước uống (Trửu Hậu phương).
+ Trị tiêu ra huyết  do cổ độc: Khâu dẫn 14 con, 3 thăng giấm, ngâm cho tới khi Giun chết, lấy nước đó uống (Trửu Hậu phương).
+ Trị tay chân sưng đau muốn rời ra: Giun đất 3 thăng, 5 thăng nước, gĩa vắt lấy nước 1 thăng rưỡi uống (Trửu Hậu phương).
+ Trị răng đau nhức: Giun đất, tán bột xức vào (Thiên Kim phương).
+ Trị mắt đỏ đau: dùng Địa long 10 con sao tán bột, uống với nước trà 3 chỉ (Thánh Huệ phương).
+ Trị lợi răng chảy máu không cầm: bột Địa long, Khô phàn mỗi thứ 4g, Xạ hương một ít, nghiền đều, xức vào một ít (Thánh Huệ phương).
+ Trị ngón tay đau nhức: Khâu dẫn gĩa  nhỏ,  đắp vào (Thánh Huệ phương).
+ Trị lưỡi sưng cứng, không trị có thể chết người: Khâu dẫn 1 con, lấy muối hòa vào ngậm, sẽ giảm từ từ (Thánh Huệ phương).
+ Trị họng, thanh quản sưng đột ngột không ăn được:  Địa long 14 con, gĩa nát, đắp ngoài họng, lại lấy 1 con hòa nước muối bỏ vào chút mật ong uống (Thánh Huệ phương).
+ Trị tai chảy mủ: Địa long (còn sống) nghiền nát, trộn với nước Hành và mỡ heo, bọc bông nhét vào tai, hoặc dùng bột Địa long thổi vào (Thánh Huệ phương).
+ Trị trĩ mũi: Địa long sao 0,4g, Nha trạo 1 miếng, tán bột, trộn với ít mật ong, hòa ít nước lạnh, nhỏ vào lỗ mũi (Thánh Huệ phương).
+ Trị ráy tai khô cứng không ra: Khâu dẫn, bỏ vào trong lá Hành, nghiền nát,  hòa thành nước, nhỏ vào đầy lỗ tai vài lần thì ra (Thánh Huệ Phương).
+ Trị côn trùng vào tai: Địa long tán bột, bỏ vào trong Hành, hòa thành nước,  nhỏ vào (Thánh Huệ phương).
+ Trị dương độc kết tụ ở hông, đè vào rất đau, thở như suyễn, táo bón, cuồng loạn: Địa long sống 4 con, rửa sạch, nghiền nát như bùn, thêm một ít gừng tươi, một muỗng mật ong, một ít nước Bạc hà, lấy nước mới lấy ở dòng sông lên, nấu sôi quá thì thêm một ít Phiến não, mồ hôi ra thì đỡ, không đỡ dùng tiếp (Thương Hàn Uẩn Yếu phương).
+ Trị đau nhức do đầu phong: vào ngày mùng 5 tháng 5, chọn Khâu dẫn, trộn với một ít Long não, Xạ hương, làm thành viên to bằng hạt ngô đồng lớn. Mỗi lần lấy 1  viên trộn với nước gừng, nhét vào trong lỗ mũi. Đau bên phải nhét bên trái và ngược lại (Long Châu Hoàn - Thánh Tễ Tổng Lục).
+ Trị điếc do bế khí: Khâu dẫn, Xuyên khung, mỗi thứ 20g, tán bột, mỗi lần uống 8g với nước sắc Mạch môn (Thánh Tế Tổng Lục).
+ Trị ứ huyết do thấp đàm, kinh lạc ứ tắc gây đau: Xuyên ô đầu, Thảo ô đầu, Địa long, Thiên nam tinh, mỗi thứ 8g, Nhũ hương, Một dược, mỗi thứ 6g. Tán bột, chưng với rượu hồ làm thành viên. Mỗi lần uống 1 viên với nước sắc Kinh giới hoặc Tứ Vật Thang (Hoạt Lạc Đơn – Hòa Tễ Cục Phương).
+ Trị đầu đau do phong nhiệt: Địa long sao, tán bột, nước Gừng, Bán hạ, Xích phục linh các vị bằng nhau, tán bột, uống 2-4g với nước Sinh khương, Kinh giới, Bạc hà (Phổ Tế phương).
+ Trị răng sâu đau:  Địa long, hòa nước muối, trộn Miến, nhét vào trên răng (Phổ Tế phương).
+ Trị trẻ nhỏ bị động kinh cấp: Khâu dẫn tươi 1 con, gĩa nát, bỏ vào 1 viên Ngũ Phước Hóa Độc Đơn, tán bột, rồi sắc uống với nước sắc nước Bạc hà (Ngũ Phước Hoàn – Phổ Tế Phương).
+ Trị kinh phong, phiền loạn, trẻ con kinh phong mạn tính, tâm thần buồn bực, phiền não, gân mạch co quắp, vị hư, ký sinh trùng trong ruột quậy, uốn ngược mình mà la hét: Nhũ hương 2g, Hồ phấn 8g. Nghiền đều, lấy Khâu dẫn khoang cổ, gĩa nát, trộn thuốc bột làm thành viên to bằng hạt mè lớn. Mỗi lần uống 7-15 viên với nước Hành sắc (Nhũ Hương Hoàn - Phổ Tế phương).
+ Trị họng sưng nghẹt: lấy Giun đất nghiền với dấm ăn, cho nuốt dần, mửa ra đàm máu thì tốt (Phổ Tế phương).
+ Trị da đầu nổi vẩy trắng: bột Địa long, cho vào một ít Khinh phấn, trộn với dầu mè, xức vào (Phổ Tế phương).
+ Trị viêm quầng (đơn độc): Khâu dẫn 1 con, để nguyên đất, gĩa nhuyễn,  đắp vào (Phổ Tế Phương).
+ Trị sốt rét bứt rứt, bón nhiều:  Địa long sống 4 con, rửa sạch, nghiền nát như bùn, thêm một ít gừng tươi, một muỗng mật ong, một ít nước Bạc hà, lấy nước mới lấy ở dòng sông lên, nấu sôi quá thì thêm một ít Phiến não, mồ hôi ra thì đỡ, không đỡ dùng tiếp, rất có hiệu quả (Trực Chỉ phương).
+ Trị tiểu không thông: Khâu dẫn, gĩa nát, ngâm nước lọc lấy nước cốt nửa chén, uống ngay (Đẩu Môn phương).
+ Trị người lớn tuổi bị bí tiểu: Giun đất khoang cổ trắng, Hồi hương, 2 vị bằng nhau, gĩa ép lấy nước uống (Châu Thị Tập Nghiệm phương).
+ Trị trẻ nhỏ bí tiểu do nhiệt kết: Địa long loại lớn, quết như bùn, bỏ vào một ít mật ong, đắp ở ngọc hành và dịch hoàn. Đốt Tàm thoái 4g, Chu sa, Long não, Xạ hương, mỗi thứ một ít, lấy Mạch môn, Đăng tâm sắc nước uống với thuốc (Toàn Ấu Tâm Giám phương).
+ Trị kinh phong mạn tính suy nhược quá: Phụ tử bỏ vỏ, rốn, nghiền sống, lấy Khâu dẫn khoang trắng bỏ trong đó mà lăn, cạo bột Phụ tử dính phía trên Khâu dẫn, làm viên to bằng hạt gạo, mỗi lần uống 10 viên với nước cơm (Bách Nhất Tuyển Phương).
+ Trị kinh phong cấp, mạn tính: ngày mồng 5 tháng 5, chọn Khâu dẫn, lấy dao tre cắt làm hai đoạn, đoạn nhảy nhanh để ra một bên, đoạn nhảy chậm để ra một nơi, nghiền nát riêng, bỏ vào một ít bột Chu sa, làm thành viên. Cần nhớ là nếu cấp kinh phong thì dùng bột của đoạn nhảy chậm, mỗi lần uống 5-7 viên với nước sắc Bạc hà (Kinh Nghiệm phương).
+ Trị trẻ nhỏ tinh hoàn bị sưng: Địa long còn nguyên đất, quết nhuyễn, trộn nước đắp vào (Tiểu Nhi Dược Chứng Trực Quyết).
+ Trị đau một bên hay chính giữa đầu không chịu đựng được, dùng Địa long bỏ đất, sấy khô, Nhũ hương các vị bằng nhau, tán bột. Mỗi lần dùng 2g, vấn lại như vấn thuốc hút, để lên lửa đèn, lấy mũi hít hơi khói ấy (Thánh Huệ Long Hương Tán - Chiêm Liệu phương).
+ Trị răng đau, răng lung lay: Địa long khô, sao, Ngũ bội tử sao, hai vị bằng nhau, tán bột , trước hết lấy Gừng tươi xát vào răng, sau đó xức thuốc bột vào Ngựcï Dược Viện phương).
+ Trị điếc đột ngột: Khâu dẫn bỏ vào muối, hành, trộn chung thành nước, lấy nước đó, nhỏ vào tai (Thắng Kim phương).
+ Trị hạch lao ở cổ lở chảy nước: dùng đoạn dưới của rễ Kinh giới sắc nóng rửa. Dùng lá Hẹ trên đất có Khâu dẫn 1 nắm, hái lúc canh năm, để trên lửa hồng, cho khô. Tán bột. Mỗi một muỗng bỏ vào Nhũ hương, Một dược, Khinh phấn mỗi thứ 2g, Xuyên sơn  giáp 9 miếng vẩy, sao, tán bột, trộn với dầu xức vào (Bảo Mệnh Tập phương).
+ Trị nhện cắn bị thương: lấy 1 lá Hành, bỏ đầu nhọn, đem Khâu dẫn bỏ vào trong ống lá, ép 2 đầu đừng để cho mất hơi, lắc cho ra nước,  bôi vào nơi chỗ cắn (Đàm Thị Tiểu Nhi phương).
+ Trị sa trực trường dương chứng: lấy Kinh giới, Sinh khương sắc rửa, lấy Địa long (bỏ đất) 40g, Phác tiêu 8g, tán bột, trộn với dầu bôi vào (Toàn Ấu Tâm Kính phương).
+ Trị phong cùi đau, ngứa: Khâu dẫn khoang trắng (bỏ đất), lấy Táo nhục nghiền nát, trộn làm thành viên to bằng hạt ngô đồng lớn, mỗi lần uống 60 viên với rượu. Cử ăn gừng, tỏi, (Hoạt Nhân Tâm Thống phương).
+ Trị nhọt độc đã vỡ mủ: Lá Hẹ trên đất có giun đất, gĩa nát lấy nước đắp vào, ngày thay 3-4 lần (Phù Thọ Tinh phương).
+ Trị nhọt độc đã vỡ miệng: Địa long, Ngô thù du, tán bột, trộn dấm, hòa với Miến sống đắp dưới lòng bàn chân (Trích Huyền phương).
+ Trị sốt cao co giật : Địa long 10g, Toàn yết 3g, Câu đằng, Kim ngân hoa đều 12g, Liên kiều 10g, sắc uống. Hoặc dùng Địa long 100g, Chu sa 30g, tán nhuyễn, làm viên. Mỗi lần uống 3g (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+Trị hen suyễn : Địa long 12g, sắc uống hoặc dùng bột Địa long khô, mỗi lần 3-4g, ngày uống 2 lần. Hoặc dùng Địa long, Cam thảo tươi, lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột, mỗi lần uống 4—5g. Ngày hai lần (Lâm Sàng Thường Dụng Trung Dược Thủ Sách).
+Trị sỏi đường tiểu : Địa long đỏ, Củ tỏi, Lá khoai lang đỏ, lượng vừa đủ, gĩa nát, đắp vùng bụng dưới, kết hợp uống thêm thuốc lợi tiểu (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Trị huyết áp cao : uống cao lỏng Địa long 40%, mỗi lần 10ml, ngày 3 lần, đạt kết quả tốt (Mao Văn Hồng, Thượng Hải Trung Y Dược Tạp Chí 1959, 4 : 39).
+Trị động kinh do chấn thương :Địa long khô 3-6g, sắc uống mỗi ngày. Liệu trình 2-12 tháng, bình quân 5,5 tháng. Trị 20 ca, khỏi 16, chuyển biến tốt 3. tỉ lệ có kết quả 95% (Chu Văn Chính, Hà Bắc Y Dược Tạp Chí 1983, 3 : 48).
+ Trị bệnh tâm thần phân liệt : Địa long 30g, Đường trắng 10g, sắc, chia 2 lần uống sáng tối. Mỗi tuần uống 6 thang, 60 thang là một liệu trình, có kết hợp thuốc an thần. Trị 30 ca, kết quả trước mắt 18 ca, số có kết quả nhiều, có tiến bộ và không kết quả, mỗi thứ 4 ca. Tổ II dùng Địa long tiêm bắp, mỗi ngày 2 lần, mỗi lần 4ml (mỗi ml tương đương 1g thuốc), kết hợp với thuốc an thần liều nhỏ. Trị 50 ca, khỏi 11, có kết quả rõ 14, có tiến bộ 12, không kết quả 13.
Tổ III dùng nước sắc Địa long, uống giống như tổ I. trị 30 ca, kết quả khỏi 2, có kết quả 7, có tiến bộ 8, không kết quả 13. kết quả tốt hơn đối với suyễn ứ huyết thực chứng (Thế Đức, Triết Giang Trung Y Dược 1979, 11 : 440).
+ Trị mề đay, dị ứng : Dung dịch Địa long 100% chích bắp, mỗi lần 2ml, 10 lần là một liệu trình, thường trị 1-2 liệu trình. Theo dõi 100 ca, tỉ lệ kết quả đạt 84% (Tân Y Học Tạp Chí 1976, 4 : 178).

Tìm hiểu thêm về địa long
Tên khoa học:
Lumbricus. họ Megascolecidae.
Mô tả:
Các loài giun đất chỉ Lumbricus thuộc họ Lumbricidae và chi Pgeretima thuộc họ Megascolecidae đều được dùng làm thuốc. Chi giun ở nước ta mới được xác định Pheretima SP., dài chừng 10-35cm, thô chừng 5-15mm, thân có nhiều đốt, ở mặt bụng và 2 bên thân có 4 đốt lông ngắn rất cứng giúp nó di chuyển được, vòng đai chiếm 3 đốt thứ 14-16. Giun đất tuy có quan hệ chủng loại phát sinh gần với giun nhiều tơ, nhưng cấu tạo cơ thể đã biến đổi để phù hợp với đời sống chui rúc ở trong đất. Giun đất lưỡng tính, tuyến sinh dục tập trung ở một số đốt. Khi trưởng thành, cơ thể giun đất hình thành đai sinh dục. Tuy lưỡng tính, nhưng chúng lại tiến hành thụ tinh chéo. Hai con giun châu đậu lại với nhau, đai sinh dục của con này ép vào lỗ nhận tinh của con kia. Tinh dịch tiết ra từ lỗ sinh dục đực, nhờ hệ co gĩan sẽ chui vào túi nhận tinh của đối phương. Sau khi thụ tinh thì hai con rời nhau. Sau vài ngày đai sinh dục dầy lên, do chất bài tiết từ tuyết biểu bì của đai sinh dục, thành một vòng đai đón nhận một ít trứng, tuột dần về phía trước, khi qua túi nhận tinh lấy tinh dịch để trứng thụ tinh. Vòng luồn qua đầu như kiểu tháo áo chui đầu. Vòng đai được bao bít hai đầu thành kén. Mỗi kén có từ 1 -20 trứng, phát triển không qua giai đoạn ấu trùng. Giun đất đặc biệt không có mắt, nhưng vẫn có cảm giác với ánh sáng là nhờ các tế bào cảm giác ánh sáng riêng lẻ phân tán dưới da. Giun đất chưa có cơ quan hô hấp riêng, nên qua kiểu hô hấp qua da. Da giun thường xuyên ẩm, nhờ vậy không khí thấm vào được dễ dàng, chính vì lẽ đó mà những ngày trời nắng giun đất không bò lên mặt đất. Giun đất sợ ánh sáng, nhưng sau những trận mưa rào đã làm cho đất nhão thành bùn bắt buộc chúng phải lũ lượt bò lên mặt đất để thở. Giun đất ăn mùn hữu cơ có lẫn trong đất, chúng dùng môi đào đất và nuốt đất vào ruột, khi thức ăn cùng với đất vào ống tiêu hóa, các tuyến tiêu hóa sẽ tiết ra các chất dịch để tiêu hóa chất mùn hữu cơ. Giun đất thải ra những viên bã và đất tròn xíu, mà ta thường gọi là Cứt giun, Cứt trùn trong Đông y gọi là Khâu dẫn nê hay Địa long nê. Giun đất ưa sống ở những nơi đất ẩm và gìau mùn hữu cơ. Ban ngày chúng lẫn ở dưới đất, đêm khuya khi sương xuống mới ngoi lên. Mật độ của giun đất thay đổi tùy theo đặc điểm lý hóa của đất, và chính hoạt động của giun đất đã đóng góp phần đáng kể trong việc thay đổi đặc điểm lý hóa được. Giun đất thường phân bố hẹp. Loại có khoang trắng tốt nhất.
Thu bắt, sơ chế:
Đào lấy thứ khoang cổ, loại gìa. Hay gặp nơi mô đất ẩm, đền đình chùa, gốc bụi chuối lâu năm. Muốn bắt dễ dàng, lấy nước lá Nghễ răm hay nước Bồ kết, nước Chè, ngâm nước đổ lên đất thì giun bò trườn lên. Người ta bắt bỏ nó vào thùng có chứa sẵn lá tre, rơm hoặc tro, rồi rửa sạch bằng nước ấm cho sạch chất nhớt, ép đuôi vào gỗ sau đó mổ dọc thân giun, rửa sạch đất trong bụng, phơi hoặc sấy khô cất dùng. Không dùng giun tự nhiên lên mặt đất (có bệnh mới lên).
Mô tả dược liệu:
Toàn thể đã được cắt phẫu, biểu hiện một phiến dài nhỏ cong nhăn teo, dài chừng 12cm-20cm, rộng chừng 10mm-17mm, toàn thân có nhiều khoang vòng, hai đầu dầy mà cứng còn có sợi thịt mỏng tồn tại, chính giữa rất nhỏ, bán trong suốt, hai bên có màu đen tro, chính giữa màu vàng nâu, chất thu khó bẻ gẫy.
Bào chế:
1- Khi dùng Khâu dẫn, nếu muốn uống phải dùng khô, sao cho khô và làm vụn đi (Danh Y Biệt Lục).
2- Dùng 16 lượng Địa long, ngâm nước vo gạo 1 đêm, vớt ra để khô tẩm rượu một ngày sấy khô, rồi sao chung với Xuyên tiêu, gạo Nếp, mỗi thứ 2 chỉ rưỡi. Hễ gạo nếp chín vàng là được (Lôi Công Bào Chế).
3- Khi dùng sậy khô tán bột, hoặc trộn muối vào cho hóa ra nước, hoặc đốt tồn tính, tùy theo trường hợp mà dùng (Bản Thảo Cương Mục).
4- Ngày nay người ta dùng bằng cách sau khi chế sơ chế xong tẩm rượu hoặc tẩm gừng sao qua tán bột để dùng (Trung Dược Đại Từ Điển).
Bảo quản:
Tránh ẩm, đựng lọ kín.
Cách dùng:
Sắc uống nước, gĩa sống hoặc tán bột trộn vào hoàn tán.
Thành phần hoá học
+ Lumbroferine, Lumbritin, Terrestro-lumbrolysin, Hypoxathine, Xan thine, Adenine, Guanine, Choline, Guanidine, nhiều loại Acid amin, Vitamin và muối hữu cơ (Trung Dược Học).
+ Lumbritin, Lumbofebin, Terrestro-lumrilysin (Sinh Dược Học Khái Luận (Nhật Bản), Nhật Bản Nam Giang Đường 1990: 354).
+  Hypoxanthine, Xanthine, Adenine, Guanine, Guanidine, Choline, Alanine, Valine, Leucine, Phenylalanine, Tyrosine, Lysine (Giang  Tô Tân Y Học Viện, Trung Dược Đại Từ Điển (Q. Hạ), Thượng Hải Nhân Dân Xuất Bản 1977: 2111).
Tác dụng dược lý    
   
+ Tác dụng hạ nhiệt, an thần (Trung Dược Học).
+ Tác dụng đối với phế quản : thuốc làm gĩan phế quản nên có tác dụng hạ cơn suyễn (Trung Dược Học).
+ Thuốc có tác dụng hạ huyết áp chậm mà lâu dài, có thể do làm gĩan mạch nội tạng (Trung Dược Học).
+ Thuốc có tác dụng kháng Histamin và chống co giật (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Thuốc làm tăng hoạt tính dung giải của Fibrin chống hình thành huyết khối. Có tác dụng hưng phấn tử cung, chất chiết xuất diệt tinh trùng (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
+ Thuốc có tác dụng phá huyết do chất Lumbritin (Nhật Bản 1911).
+ Tác dụng giải nhiệt: cho uống 12g bột Địa long, thấy có tác dụng  hạ sốt. Đối với bệnh nhân sốt do cảm nhiễm, cho uống 0,3g thấy có tác dụng giảm sốt. Tác dụng giảm sốt xuất hiện sau nửa giờ đến 3 giờ, từ 2-5 giờ thì hết sốt, trở lại bình thường (Phó Tuấn Lục, Thiểm Tây Trung Y 1980, 10 (3): 138).
+ Tác dụng đối với hệ thần kinh trung ương: Trị trúng phong (não thốt trúng khuyết huyết tính). Dùng dịch Địa long chích 10g/kg vào khoang bụng chuột bị chứng não thiếu máu bị trúng phong, thấy các triệu chứng giảm nhẹ (Uông Bội Căn, Sơn Tây Y Dược tạp Chí 1984, 13 (3): 133).
Tính vị:
+ Vị mặn, tính hàn (Bản Kinh).
+ Tính rất hàn, không độc (Danh Y Biệt Lục).
+ Vị đắng, cay, tính hàn (Trấn Nam Bản Thảo).
+ Vị mặn. Tính hàn (Trung Dược Học)..
Quy kinh:
+ Vào kinh Tỳ (Bản Thảo Cầu Chân).
+ Vào kinh Can, Tỳ, Phế (Bản Thảo Tái Tân).
+ Vào kinh Vị, Thận (Dược Nghĩa Minh Biện).
+ Vào  3 kinh Tỳ, Vị, Thận (Trung Dược Học).
Tham khảo:
+ Khâu dẫn vị mặn tính lạnh, có tác dụng giáng tiết, chạy xuyên suốt khắp kinh lạc lại có thể thanh nhiệt chống co giật, lợi tiểu, bình suyễn. Đào Hoằng Cảnh ghi rằng có thể khử giun sán rất hiệu quả. 'Trửu Hậu Phương' dùng nó để trị sưng tinh hoàn hoặc tinh hoàn thụt lên đau bụng thắt không chịu nổi. Vì vậy mà Khấu Tông Thích lại dùng trong các chứng bệnh phong đi xuống do thận. Ấy là những cái hiện nay chúng ta cần phải nghiên cứu thêm trong lâm sàng (Trung Dược Học Giảng Nghĩa).
+ Theo báo cáo mới đây, dùng Địa long kết hợp với các thứ sau có thể phòng trị chứng ung thư, như: Địa long, Ngô công, Phong phòng (tổ ong), Bồ công anh, Bản lam căn, Toàn yết, Xà thoái mỗi thứ 40g. Bạch hoa xà thiệt thảo nửa cân. Tán bột luyện mật  làm viên, mỗi viên 8g. Uống sáng 1 viên, tối 1 viên với nước nóng. Lại có thể trị bệnh áp huyết cao, tán bột hoặc sắc uống (Sổ Tay Lâm Sàng Trung Dược).
Phân biệt:
1- Ở Trung Quốc còn dùng  các con Pheretima asiatica Michaelsen và Allolobophora caliginosa Trapezoides,.. thuộc họ Megasclo lecidae, để làm thuốc.
2- Cần phân biệt với Rắn giun là một giống rắn có tên khoa học là Tpholops. Thoáng nhìn, ta dễ lẫn rắn giun với giun đất vì rắn cũng có cỡ lớn và màu nâu thẫm bóng láng như giun. Nếu quan sát  kỹ một chút, ta sẽ thấy thân rắn giun phủ vẩy như rắn. Đây là một loài rắn thực sự, do điều kiện sống chui dưới đất như giun, nên có hình dạng tương tự giun. Thân rắn giun hình trụ, có vẩy nhẵn bóng giúp con vật chui luồn dễ dàng. Mõm nhọn sắc, giúp con vật dễ khoan lỗ trong đất mềm. Đuôi ngắn có vẩy nhọn là chỗ tựa trên đất giúp rắn trườn về phía dưới. Mắt nhỏ ẩn dưới vẩy bên đầu, nên tránh khỏi sây sát khi rắn luồn trong đất. Rắn giun đào hầm dưới đất có khi sâu tới hàng mét và ăn các loại giun và sâu bọ ấu trùng ở đất. Người ta thường gọi là "Rắn hổ giun", không cắn được người (Danh Từ Dược Học Đông Y)