Cây lược vàng bắt đầu được sử dụng làm thuốc ở Thanh Hóa cách nay khoảng hơn chục năm, dựa trên những tài liệu có xuất xứ từ Nga. Từ năm 2007 "cơn sốt lược vàng" bắt đầu bùng phát ở Thanh Hóa, sau đó lan truyền ra nhiều tỉnh và thành phố, từ Bắc chí Nam, cho tới ngày hôm nay, cơn sốt đó vẫn chưa hạ nhiệt. Hiện đang tồn tại hai quan điểm về tác dụng của vị thuốc này. Quan điểm thứ nhất cho rằng, lược vàng là một loại "thần dược", có thể chữa trị rất nhiều loại bệnh tật, thậm chí cả một số bệnh thuộc loại nan y... Quan niệm thứ hai cho rằng tác dụng chữa bệnh của lược vàng chẳng có gì đặc biệt, thậm chí có người còn cho rằng, lược vàng chỉ là một loại cây cảnh, không thể coi đó là cây thuốc, vì không có tác dụng chữa bệnh... Vì vậy, trên thực tế, cây lược vàng có tác dụng gì? Để trả lời câu hỏi đó, tốt nhất có lẽ nên tìm hiểu tình hình sử dụng vị thuốc này ở Nga.
Cây lược vàng được bán nhiều ở các hàng hoa cây cảnh tại Hà Nội, với giá từ 30.000 - 50.000 đồng một cây. Ảnh: K.Minh |
Cây "lược vàng" có xuất xứ từ Trung và Nam Mỹ. Tên khoa học là Callisia fragrans (Lind), thuộc học Commelinaceace (thài lài), do nhà khoa học Mỹ R.E Woodson xác định từ năm 1942. Lược vàng bắt đầu được trồng làm cảnh ở Nga từ hơn 100 năm trước. Tại Nga, cây có tên thông dụng là "Dôlôtôi us" có nghĩa là "sợi râu vàng". Nếu như ở nước ta, lược vàng còn được gọi bằng những tên khác như "lan vòi", "cây bạch tuộc", "trai lá phất dũ", "giả khóm"... thì ở Nga, cây cũng có nhiều tên khác nhau, như "ka-li-di-a thơm", "sâm nhà", "vệ nữ", "bác sĩ gia đình"... Một chi tiết đáng lưu ý là, tại Nga cây phát triển không được tốt như ở nước ta; nếu được chăm sóc tốt, cây mới ra hoa và mọc ra "dôlôtôi us" (sợi râu vàng).
Nghiên cứu cơ bản
Từ những năm giữa thế kỷ 20, một số nhà khoa học Mỹ và Canada đã phát hiện: những loài cây thuộc họ Commelinaceae (trong đó có cây lược vàng), chứa nhiều loại hoạt chất sinh học, có khả năng kiềm chế sự phát triển của các khối u. Ở Nga, các nghiên cứu về thành phần hóa học và tác dụng dược lý của lược vàng được tiến hành tại Đại học Y khoa thành phố Irkyt, từ những năm 80, thế kỷ trước, dưới sự chỉ đạo của GS. Semenov, một nhà khoa học rất nổi tiếng. Kết quả nghiên cứu nhiều năm ở Irkyt cho thấy: Trong cây lược vàng có một số hoạt chất sinh học thuộc nhóm flavonoid và steroid thực vật. Ngoài ra, trong cây còn có sắt, đồng, crôm... những nguyên tố có tác dụng quan trọng đối với hoạt động sống của cơ thể. Hai chất thuộc nhóm flavonoid được phát hiện là: kvercitin và kempferol. Lvercitin có hoạt tính giống như vitamin P và là chất chống ôxy hóa, có tác dụng lợi tiểu và chống co giật. Có thể sử dụng trong điều trị dị ứng, chảy máu nội tạng, viêm thận, viêm khớp, cũng như một số bệnh tim mạch, mắt và nhiễm trùng, Kempferol có tác dụng làm tăng độ bền của mạch máu, an thần, chống viêm, lợi tiểu mạnh – giúp cơ thể bài tiết các chất độc hại ra ngoài. Có thể sử dụng để chữa trị các bệnh nhiễm khuẩn, bệnh dị ứng, rối loạn chức năng bài tiết nước tiểu. Các steroid có trong thực vật được gọi là các fitosterol. Chúng có hoạt tính tương tự nội tiết tố sinh dục, còn có tác dụng diệt khuẩn, chống xơ vữa động mạch và kiềm chế sự phát triển của các khối u. Có thể ứng dụng trong điều trị một số dạng ung thư, cũng như các bệnh tuyến tiền liệt, bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa.
Tuy nhiên, cùng với những tác dụng có lợi nói trên, các nhà khoa học Nga còn nhận thấy, lược vàng cũng là vị thuốc dễ gây tác dụng phụ, như gây tổn thương thanh quản, dị ứng nổi ban đỏ, phù nề tứ chi, phù toàn thân... Các phản ứng phụ đó hay gặp nhất ở những người có khả năng miễn dịch yếu và có cơ địa dị ứng. Chính những nhược điểm đó đã hạn chế việc mở rộng ứng dụng lược vàng trên lâm sàng. Quan điểm y học cho rằng: chỉ có thể sử dụng lược vàng để chữa bệnh sau khi được chuyên gia tư vấn. Có thể cũng vì vậy, trong các sách về y học dân gian Nga, các sách tra cứu hay các từ điển lớn về thảo dược ở Nga, xuất bản trong thời Liên Xô cũ đều không thấy đề cập đến vị thuốc này.
Ứng dụng thực tế
Trong khi giới khoa học ở Nga còn đang do dự, thì lược vàng đã được các thầy thuốc thực hành sử dụng rộng rãi. Trên lâm sàng, lược vàng được sử dụng chữa các bệnh dạ dày – ruột, bệnh túi mật, lá lách; các bệnh đường hô hấp như ho, viêm họng, viêm phế quản, hen phế quản; các bệnh đường tiết niệu; các bệnh ngoài da như viêm da, zona, chàm... Thuốc chế từ "lược vàng" có tác dụng giảm đau, chống nóng rát, giúp vết thương chóng lành... Ngoài ra, còn có tác dụng nhất định đối với ung thư, chống nghiện rượu và nghiện thuốc lá.
Tại Nga, cây lược vàng hiện đang được ứng dụng rất rộng rãi. Do đó nếu lên mạng, vào một website tìm kiếm thông tin nào đó, gõ từ "dôlôtôi us" bằng tiếng Nga, bạn sẽ tìm thấy hàng chục tên sách và hàng trăm bài báo có nội dung liên quan tới vị thuốc này. Trong số các bộ sách, có một cuốn có số lượng phát hành rất lớn như "Lược vàng – Những đơn thuốc tốt nhất" của S.Anastasia; sách tra cứu "Lược vàng – từ A đến Z – những đơn thuốc thần kỳ", "Lược vàng trong chữa trị căn bệnh thế kỷ" của V.Ogarkov; "Lược vàng và sex", "Lược vàng – tất cả những điều đã biết và chưa biết" của A.Korzinova... Phần lớn các sách về lược vàng ở Nga đều do các thầy thuốc chuyên nghiệp, có bằng cấp, học vị đàng hoàng chắp bút. Trong số đó, cuốn "Thần thoại và sự thật về cây lược vàng" của GS. I.P.Neumưvakin... được xem như cuốn sách đầy đủ và khách quan nhất. Cùng với sách báo, các loại thuốc chữa bệnh, thực phẩm chức năng, với lược vàng là dược liệu chính, cũng đang xuất hiện ngày càng nhiều.
Một điều cần nhấn mạnh là, tuy các thầy thuốc lâm sàng ở Nga coi lược vàng là một vị thuốc quý, nhưng họ không coi đó là "thần dược". Thí dụ, tại địa chỉ www.callisia.org, chuyên giới thiệu về cách sử dụng lược vàng để chữa bệnh, các chuyên gia cũng đã cảnh báo (dịch nguyên văn): "Cần nhớ rằng, trên đời không tồn tại loại thuốc vạn năng và không có một phương tiện y học hiện đại hay y học dân gian nào có khả năng chữa khỏi tất cả các loại bệnh. Do đó, đối với các đơn thuốc dân gian, cần có một thái độ thận trọng; chỉ có thể chỉ định cho bệnh nhân một loại thảo dược nào đó, kể cả lược vàng, sau khi tư vấn với bác sĩ điều trị.
Bản thân các thầy thuốc dân gian, những người đang ứng dụng và xây dựng các đơn thuốc từ cây lược vàng cũng nhận định: lược vàng không phải là phương tiện vạn năng. Tác dụng chữa bệnh của nó vẫn còn đang được tiến hành nghiên cứu. Vì vậy chưa có gì bảo đảm là lược vàng có thể chữa khỏi được hoàn toàn một bệnh nào đó".
Cây lược vàng được trồng ở nhiều gia đình. Ảnh: PV |
Cần thận trọng khi dùng lược vàng
Từ những thông tin về việc sử dụng lược vàng trong chữa bệnh ở Nga và những trường hợp chữa khỏi bệnh nhờ cây lược vàng mà một số tờ báo ở nước ta đã đăng tải, sơ bộ có thể nhận thấy: theo quan điểm của Đông y, lược vàng là thuốc có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, nhuận phế, tiêu viêm, hóa đàm, lợi thủy. Có thể sử dụng để chữa ho, viêm họng, sốt, viêm nhiễm tiêu hóa và tiết niệu; dùng ngoài giã đắp chữa trị vết thương, viêm nhiễm ngoài da. Tóm lại, tạm thời có thể xếp lược vàng vào loại "thuốc thanh nhiệt" của Đông y.
Trong Đông y "thuốc thanh nhiệt" là loại thuốc được sử dụng nhiều nhất, do có tác dụng điều hòa và nâng cao sức chống bệnh của cơ thể; đối với nhiều loại bệnh nhiễm khuẩn, thậm chí nhiễm virut, thuốc thanh nhiệt có tác dụng điều trị trực tiếp, hoặc hỗ trợ rất tốt. Tuy nhiên, nếu sử dụng lâu dài, quá liều lượng hoặc không đúng bệnh, cũng có thể gây nên những tác dụng ngoài sự mong muốn, đặc biệt là đối với trẻ nhỏ và người cao tuổi.
Những năm gần đây, các chuyên gia Đông dược đã nhiều lần cảnh báo và mô tả khá tỉ mỉ những trạng thái bệnh lý, do lạm dụng các thuốc thanh nhiệt gây nên. Những bệnh lý đó, cũng được xếp loại vào nhóm "các biến chứng do thuốc". Cụ thể, thuốc thanh nhiệt có thể dẫn tới 2 bệnh lý:
Thứ nhất là chứng hậu (hội chứng) được Đông y gọi là "hao khí tổn dương" với những biểu hiện chủ yếu: Mệt mỏi, đầu choáng, mắt hoa, hoạt động mạnh một chút là đã vã mồ hôi, thở gấp, hụt hơi, buồn ngủ, tinh thần thiếu tập trung, khả năng tư duy giảm sút, chán ăn, đau bụng, tiêu chảy...
Thứ hai là chứng hậu "thương âm hao dịch" với những biểu hiện chủ yếu: sáng thức dậy có cảm giác mệt mỏi, đầu choáng váng quay cuồng, mắt đỏ, bất chợt thấy tai ù; nằm ngủ thường ra mồ hôi trộm nhất là lúc vừa thiếp đi; miệng háo thích uống nước mát, tính tình biến đổi dị thường, hay cáu giận một cách vô cớ, ăn uống giảm sút, đại tiện táo, nước tiểu sẻn đỏ...
Các triệu chứng kể trên không phải lúc nào cũng xuất hiện tất cả. Trên thực tế, tác dụng phụ của thuốc thanh nhiệt thường không rõ ràng, không điển hình, nên rất dễ bị người dùng bỏ qua. Vì vậy, khi sử dụng thuốc thanh nhiệt liều cao hoặc dùng lâu ngày, cần đặc biệt chú ý theo dõi, nếu thấy có những biến đổi khác thường về sinh lý cũng như tâm lý, cần dừng ngay thuốc.
Khi dùng cây lược vàng để chữa bệnh, cũng cần chú ý tới những tác dụng phụ - "các biến chứng do thuốc", như khi sử dụng thuốc thanh nhiệt.
Thực ra, những tác dụng như thanh nhiệt, giải độc, sát khuẩn làm lành vết thương ... không phải là những tác dụng "đặc hữu" - chỉ có ở cây lược vàng, những tác dụng đó, cũng có ở rất nhiều vị thuốc Nam quen thuộc khác. Lược vàng, nhiều khả năng cũng là một cây thuốc quý, tuy nhiên cũng không nên "sùng bái" quá mức.
Lương y Thái Hư