vietbao.vn - Thứ năm, 05 Tháng ba 2015, 10:30 GMT+7
GS.TS Nguyễn Bá Đức: Ghép tế bào gốc không chữa được ung thư
Tại Mỹ, đã áp dụng nghiên cứu và thử nghiệm 20 năm nhưng đến nay vẫn tiếp tục phải nghiên cứu mà chưa đưa vào thường quy.
Theo đó, ghép tế bào gốc không phải để chữa ung thư mà chỉ để khắc phục các tác dụng phụ của hóa chất.
Điều trị ung thư vẫn phải dựa trên 3 phương pháp kinh điển.
GS. TS Nguyễn Bá Đức – nguyên GĐ Bệnh viện K, Phó Chủ tịch Hội Ung thư Việt Nam |
GS. TS Nguyễn Bá Đức khẳng định, cho đến nay nền y học thế giới và VN chữa ung thư vẫn phải dựa vào những phương pháp kinh điển gồm: phẫu thuật, xạ trị và hóa trị.
Đối với phương pháp phẫu thuật, được chỉ định với những loại ung thư cần phải mổ đặc biệt các khối u thể đặc. Đây được xem là phương pháp chính điều trị nhiều loại ung thư như vú, phổi, ung thư cổ tử cung... Nếu người bệnh được phát hiện phẫu thuật sớm thì khả năng chữa khỏi hoàn toàn rất lớn. Đã từng có bệnh nhân ung thư vú sống sót sau 40 năm phẫu thuật.
Ở phương pháp xạ trị (dùng tia phóng xạ) hiện nay chúng ta thường dùng máy gia tốc chiếu vào vùng có tế bào ung thư, để diệt tế bào ung thư. Lý giải phương pháp này, GS Đức cho rằng, có những loại ung thư không thể phẫu thuật được (ung thư máu, ung thư vòm họng), các khối u ở vị trí đặc biệt nếu mổ đôi khi gây tổn thương cơ quan lành xung quanh hoặc khối u tương đối lan rộng mà bác sĩ không biết ranh giới đến đâu mà lấy ra hết. Lúc này, phương pháp xạ trị được áp dụng để chiếu tia vùng rộng hơn để diệt nốt những tế bào ung thư còn sót lại sau khi mổ.
GS Đức cho biết phương pháp kinh điển thứ 3 là hóa chất - hóa trị. Cũng giống như phương pháp thứ 2, khi người bệnh đã dùng xạ trị (đôi khi cả phẫu thuật rồi) nhưng tế bào ung thư vẫn lan rộng khắp cơ thể, không thể biết tế bào ung thư ẩn nấp ở những đâu (hay còn gọi là di căn) thì người bệnh buộc phải được chỉ định dùng hóa chất tiêm vào cơ thể chạy khắp theo hệ thống tuần hoàn.
"Có những bệnh nhân chỉ cần phẫu thuật mà không cần dùng đến phóng xạ hóa chất nếu khối u được phát hiện ở giai đoạn sớm, nhỏ và chưa di căn, nhưng trên thực tế bệnh nhân thường đa dạng với nhiều mức độ, giai đoạn bệnh khác nhau nên trong điều trị ung thư thường phải phối hợp nhiều phương pháp" - GS Đức nhấn mạnh.
GS Đức phân tích thêm: Điều trị hóa chất là con dao hai lưỡi, vừa diệt tế bào ung thư nhưng cũng làm tổn thương tế bào lành, đặc biệt tế bào tạo máu trong tủy xương. Đây là tế bào rất non, chưa trưởng thành biệt hóa để làm các chức năng theo sự phân công của cơ thể, quá trình sinh sôi rất nhanh nhưng lại yếu ớt hơn. Điều này khiến cho bệnh nhân sau khi điều trị hóa chất đôi khi dẫn đến suy tủy. Mà tình trạng suy tủy nặng có thể khiến bệnh nhân tử vong.
Vậy làm thế nào để khắc phục tình trạng này? Đây chính là căn nguyên để các nhà khoa học tìm ra phương pháp ghép tế bào gốc tạo máu - có thể lấy từ bản thân người bệnh (ghép tế bào gốc tự thân) hoặc lấy từ người khác với nhiều mục đích cho nhiều loại bệnh khác nhau.
GS Đức cho biết, đây không phải phương pháp mới. Tại Mỹ, đã áp dụng nghiên cứu và thử nghiệm 20 năm nay nhưng đến nay vẫn là phương pháp tiếp tục phải nghiên cứu chứ chưa đưa vào thường quy.
Ghép tế bào gốc không phải để chữa ung thư mà phương pháp này chỉ để khắc phục các tác dụng phụ của hóa chất. Đó là khi bệnh nhân được điều trị hóa chất liều cao sẽ dẫn đến suy tủy.
Lúc này bệnh nhân sẽ được truyền trở lại tế bào gốc tạo máu nhằm phục hồi sinh sản hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu chống suy tủy. Bản thân việc làm đó là đưa bệnh nhân gần chết rồi cố gắng cứu trở lại. Đây là phương pháp rất nguy hiểm, chi phí cho phương pháp này cũng rất tốn kém.
"Không có chuyện ai điều trị bằng tế bào gốc cũng khỏi hẳn bệnh ung thư. Bởi việc tái phát tế bào ung thư nhiều khi bản thân bác sĩ điều trị cũng không thể biết được đã diệt đến tế bào ung thư cuối cùng hay chưa?
Bệnh ung thư ai đã bị thì gắn với người đó suốt đời, xem có tái phát, di căn trở lại hay không. Điều này hoàn toàn khác với bệnh viêm phổi, đau ruột thừa cắt xong là xong. Bệnh càng ở giai đoạn sớm, điều trị sớm thì khả năng khỏi hẳn càng cao (không tái phát, không di căn) nhưng nếu muộn tỷ lệ di căn, tái phát rất lớn" - GS Đức nhấn mạnh.
GS Đức khuyến cáo, người bệnh không nên hiểu nhầm tế bào gốc tác động vào tế bào ung thư mà chỉ nên coi đây là biện pháp giúp phục hồi cơ thể, phục hồi dòng máu, tủy xương.
Thay vào đó, vẫn cần phải dựa trên 3 phương pháp kinh điển kết hợp với chế độ dinh dưỡng và liệu pháp tinh thần. Điều quan trọng hơn cả, đó là cần giữ thói quen khám sức khỏe định kỳ 6 tháng/ lần để phát hiện sớm những bất thường sức khỏe trong đó có căn bệnh ung thư.
Bệnh viện Trung ương Huế: Rất nhiều bệnh nhân hỏi điều trị ung thư!
(Dân trí) Sau khi bài báo "Chữa khỏi ung thư - Hy vọng của ngành y nước nhà" được đăng tải, PGS.TS.Nguyễn Duy Thăng, PGĐ BV Trung ương Huế, Chủ nhiệm đề tài cấp Nhà nước độc lập "Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư vú và ung thư buồng trứng" cho biết có rất nhiều bệnh nhân gọi điện thoại.
Cần 5 năm mới đánh giá được thành công của phương pháp mới
Theo PGS.TS.Nguyễn Duy Thăng, thành công của các bệnh nhân trên chỉ là bước đầu của Đề tài cấp Nhà nước độc lập "Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư vú và ung thư buồng trứng".
"Để đánh giá thành công mỹ mãn của phương pháp mới, thời gian lui bệnh hoàn toàn phải sau 5 năm. Do đó, các bệnh nhân trên được xem là thành công bước đầu đáng khích lệ và mở ra hướng nghiên cứu trong tương lai cho các loại ung thư khác" – BS Thăng cho biết.
Và đề tài này đang giới hạn trong 2 bệnh ung thư buồng trứng và ung thư vú, sau khi đến hết năm 2015 mới có thể có hướng điều trị với các loại bệnh ung thư khác.
Còn TS. Nguyễn Đình Tùng, PGĐ Trung tâm Ung bướu, BV Trung ương Huế, người trực tiếp điều trị cho bệnh nhân Kiều Diễm, cho biết: bệnh nhân là trường hợp đặc biệt khi bị bệnh rất nặng. Sau khi bệnh nhân ra viện, theo phác đồ phải theo dõi trong vòng 5 năm tiếp theo và có thể nhiều hơn để đánh giá về bệnh, xem tế bào ung thư có sạch sẽ hết hay không, lúc đó sẽ kết luận chính xác.
Cũng theo BS Tùng, việc dùng tế bào gốc như một gạch nối quan trọng và việc ghép tế bào gốc là 1 trong những phương pháp điều trị hỗ trợ trong quá trình điều trị ung thư giai đoạn nặng có biến chứng suy tủy. Nhưng do điều trị ung thư là điều trị đa mô thức, kết hợp nhiều bước với chủ yếu vẫn là phác đồ điều trị kinh điển của ung thư.
Bệnh nhân Kiều Diễm (cầm hoa) bị ung thư vú di căn não, phổi, xương sống vỡ òa niềm vui ngày ra viện vào đầu năm 2015
Hy vọng vào sự khả quan của phương pháp
Trao đổi với GS.TS.Bùi Đức Phú, GĐ BV Trung ương Huế, được biết, việc ứng dụng tế bào gốc trong liệu pháp điều trị các bệnh ung thư máu ác tính đã bắt đầu từ 1995 tại Việt Nam. Tại BV Trung ương Huế từ năm 2003 đã ứng dụng phương pháp này để điều trị các bệnh máu ác tính như: Leucemie, bệnh Kahler.
Năm 2014, Hội đồng Khoa học Bệnh viện đã thông qua đề cương nghiên cứu Đề tài cấp Nhà nước độc lập "Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư vú và ung thư buồng trứng" do PGS.TS.Nguyễn Duy Thăng làm Chủ nhiệm đề tài. Phương pháp nghiên cứu là dùng tế bào gốc tự thân của các bệnh nhân ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng, để truyền lại cho họ nếu có biến chứng suy tủy do điều trị hóa chất liều cao.
Điều này có nghĩa là các phương pháp điều trị ung thư kinh điển gồm có: Phẫu thuật, xạ trị và hóa trị vẫn đang được áp dụng đơn nguyên hoặc phối hợp cho các bệnh nhân này. Sự khác biệt là sau khi điều trị kinh điển, các bệnh nhân nhân này được điều trị hóa chất liều cao sẽ dẫn đến suy tủy. Lúc này, nếu các thuốc kích thích sinh tủy thất bại, thì bệnh nhân sẽ được truyền tế bào gốc tạo máu tự thân nhằm phục hồi sinh sản hồng cầu, bạch cầu, tiểu cầu.
"Mặc dù công trình nghiên cứu tế bào gốc hỗ trợ trong điều trị ung thư vú và buồng trứng đã có từ lâu trên thế giới và đang tiếp tục tranh luận, nhưng Nhóm nghiên cứu của BV Trung ương Huế đã điều trị thành công ban đầu cho 4 bệnh nhân, là một nỗ lực rất đáng ghi nhận về sự phối hợp các chuyên khoa khác nhau trong đó có vai trò quan trọng của chủ nhiệm đề tài là BS Thăng.
Việc đánh giá kết quả điều trị cần có thời gian: Tái phát ung thư sau bao lâu? Tình trạng suy tủy diễn biến như thế nào?... Hiện còn quá sớm và quá ít số liệu để đánh giá hiệu quả của một phương pháp điều trị. Trong thời gian này, nhóm nghiên cứu đang theo dõi chặt chẽ diễn biến của các bệnh nhân đã được điều trị đáp ứng ban đầu, chúng tôi hy vọng có nhiều khả quan đối với phương pháp này.
Có thể khẳng định Tế bào gốc được sử dụng tại BV Trung ương Huế không phải là phương pháp điều trị tiêu diệt tế bào ung thư, mà được dùng để hỗ trợ điều trị suy tủy sau liệu pháp hóa trị liều cao để diệt tế bào ung thư.
Tuy vậy trong những ngày qua, có nhiều bệnh nhân chưa nắm rõ thông tin nên đã điện thoại về bệnh viện để được tư vấn điều trị. Chúng tôi thành thật xin lỗi đã không kịp thời công bố rõ ràng và dễ hiểu hơn" – BS Phú trao đổi thêm.
Tiêu chuẩn cơ bản của bệnh nhân được ghép tế bào gốc: - Tuổi: không quá 55 ( Tuổi lớn hơn khả năng ghép không thành công) - Cân nặng: phải trên 50kg (Nếu thiếu cân không huy động đủ số lượng tế bào gốc để ghép) Sự quan tâm của độc giả cho thấy hiện nay nhu cầu tư vấn về bệnh ung thư rất lớn, do đó Ban chủ nhiệm đề tài chúng tôi đã tổ chức bộ phận tư vấn gồm các chuyên gia theo từng lĩnh vực như sau: 1. Về lĩnh vực Ung thư buồng trứng: ThS.BSCKII. Lê Sỹ Phương - Số điện thoại: 0914019300 - E-mail: phuonglesy12@gmail.com 2. Về lĩnh vực Ung thư vú: PGS.TS. Nguyễn Đình Tùng - Số điện thoại: 0913426510 - E-mail: tung.phd@gmail.com 3. Về lĩnh vực các bệnh về máu: ThS.BS.Tôn Thất Minh Trí - Số điện thoại: 0914051610 - E-mail: bstonthatminhtri@gmail.com 4. Về lĩnh vực Tiêu hóa-Gan Mật, Tụy, Phổi… + PGS.TS.Phạm Như Hiệp - Số điện thoại: 0903580046 - E-mail: nhuhieppham@yahoo.com.vn + PGS.TS. Lê Lộc: - Số điện thoại: 0903521999 - E-mail: knthgm@gmail.com 5. Về các nội dung liên quan khác: E-mail: bvtwhue@dng.vnn.vn |
Đại Dương
Chân dung vị bác sĩ đầu tiên ở Việt Nam chữa khỏi nhiều bệnh ung thư bằng tế bào gốc
Nhiều người nhắc về PGS.TS Nguyễn Duy Thăng là người đầu tiên ở Việt Nam chữa được ung thư bằng tế bào gốc, nhưng nói vậy chưa thật sự đúng. Với ung thư, không có khái niệm khỏi bệnh, lành bệnh. Người ta chỉ gọi là lui bệnh một phần và lui bệnh hoàn toàn. Dù vậy, những gì bác Thăng đã làm được với những bệnh nhân của mình là một điều kỳ diệu, một phép màu mà có lẽ những bệnh nhân đó đã không dám mơ trước khi đến bệnh viện TW Huế.
Ngày 25/6/2014, bệnh nhân Lê Thị Sau (52 tuổi, trú Thị xã Hương Thủy, tỉnh TT-Huế) được ra viện sau khi lành bệnh ung thư buồng trứng giai đoạn cuối. Chị Sau là ca bệnh ung thư đầu tiên tại Việt Nam được ghép tế bào gốc thành công.
Ngày 21/11, bệnh nhân thứ hai là Trần Thị Thu (48 tuổi, phường Kim Long, TP Huế) với bệnh tương tự chị Sau - được chữa lành, ra viện.
Ngày 22/1/2015, bệnh nhân Nguyễn Thị Vui (58 tuổi, huyện Phú Lộc, tỉnh TT-Huế) bị ung thư tủy xương được chữa khỏi bằng tế bào gốc.
Ngày 13/2/2015, bệnh nhân Lê Thị Kiều Diễm (40 tuổi, huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau) bị ung thư vú giai đoạn cuối di căn ung thư lên não, phổi, cột sống ra viện với phương pháp tương tự.
Đây là 4 trong 10 bệnh nhân trong đề tài cấp Nhà nước độc lập đầu tiên "Nghiên cứu sử dụng tế bào gốc tạo máu tự thân trong điều trị ung thư vú và ung thư buồng trứng" được Bộ KH&CN cho phép riêng BV Trung ương Huế triển khai 2013 - 2015 và PGS.TS. Nguyễn Duy Thăng làm chủ nhiệm đề tài.
Tôi cảm thấy có một niềm vinh dự đặc biệt khi có thể được gặp gỡ bác Thăng tại Huế. Bác Duy Thăng gầy hơn tưởng tượng của tôi, làn da sạm đen lấm tấm những vết đồi mồi, giọng nói trọ trẹ ấm áp và nụ cười lúc nào cũng tươi rói.
Trong suốt buổi nói chuyện, bác thường đặt hai bàn tay gọn gàng lên nhau, thỉnh thoảng chỉnh lại tấm bảng tên trước ngực một cách cẩn thận. Bác bày tỏ ý muốn được xưng là "bác", thay vì "tôi" trong buổi phỏng vấn. "Ở đây, người ta gọi bác là bác. Bác là bác sĩ, gọi một cách thân mật như vậy". Bác cười tươi giải thích, chúng tôi làm sao có thể từ chối khác đi đây?
PGS.TS. Nguyễn Duy Thăng, PGĐ BV Trung ương Huế là bác sĩ đầu tiên tại Việt Nam chữa lui nhiều bệnh ung thư hoàn toàn bằng tế bào gốc.
Trong suốt những lần có cơ hội được gặp và nói chuyện với bác, điều tôi luôn cảm thấy đó là một niềm vui nhẹ nhàng được bác truyền đi tới những người xung quanh. Như thể, nếu bác không khoác áo blouse trắng và tôi không biết trước bác là Phó giám đốc của một bệnh viện, là người tìm ra cách chữa ung thư buồng trứng và ung thư vú - tôi sẽ nghĩ đây đơn giản là một người đàn ông đang sống những ngày tháng thật sự vui vẻ và bình yên . Đôi khi, trong lúc đi theo sau bác qua các hành lang của khu truyền máu, tôi băn khoăn không biết bác đã lấy đâu ra sức lực, niềm say mê tìm tòi không dứt, để vẫn nghiên cứu và học hỏi mỗi ngày.
Người cãi án tử cho bệnh nhân ung thư
Với các bệnh nhân ung thư, khi phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn thường không có cơ hội lui bệnh. Mâu thuẫn là ở chỗ, không nhiều người có khái niệm khám sức khỏe định kỳ, đặc biệt là ở những vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa. "Để có được ngày hôm nay, là nhiều thế hệ không làm được và bác cũng chứng kiến nhiều lần thất bại. Các bệnh nhân, cứ đến giai đoạn muộn là bệnh viện lại trả về. Thầy mình chấp nhận với điều đó, mình cũng chấp nhận thì không còn gì để nói". Bác Thăng chia sẻ về động lực đã thôi thúc bác bắt tay và nghiên cứu đề tài này.
"Trước khi bác thành công, trước khi có đề tài này và được cho phép nghiên cứu, bác quá trăn trở khi luôn luôn phải chứng kiến bệnh nhân cứ ra đi. Điều đó cứ đeo đuổi cuộc đời bác, và dù bác mong muốn có thể thay đổi, nhưng nó gần như quá sức của mình. Giống như khi Giáo sư Tôn Thất Tùng trả lời một nhà báo của Pháp khi được hỏi về phương pháp phẫu thuật gan Tôn Thất Tùng. Người nhà báo hỏi: "Vì sao giáo sư lại thành công với phương pháp này?". Thầy Tùng nói một câu đơn giản: "Đằng sau phương pháp này, là cả một nghĩa trang". Chính nghĩa trang ấy đã thôi thúc thầy Tùng phải nghiên cứu. Bác cũng vậy, chứng kiến bệnh nhân cứ ra đi, bác lại càng quyết tâm nghiên cứu."
Phần này của câu chuyện rất quen thuộc: Những khó khăn. Điều khác biệt duy nhất đó là khó khăn không đến từ cơ sở vật chất hay tiền bạc, mà đến từ chính bản thân các thành viên tham gia đề tài, đến từ chính trách nhiệm của họ với người bệnh của mình. "Khi thực hiện đề tài này, nếu mình không đủ khả năng, bệnh nhân sẽ tử vong ngay sau đó." Bác Thăng chia sẻ hết sức thẳng thắn. "Để nói với bệnh nhân, mình phải có khoa học, mình phải khẳng định rằng việc làm của mình là khoa học. Và nhất quyết không được phép đưa bệnh nhân ra làm chuột bạch. Mình là người thầy thuốc, mình không được cho phép bản thân mình nghĩ đến điều đấy, nói gì là làm."
Cho đến tận bây giờ, bác Thăng vẫn còn nhớ như in về cái ngày ra viện của chị Nguyễn Thị Sau - bệnh nhân đầu tiên đã được chữa khỏi ung thư bằng phương pháp tế bào gốc. Chị Sau từng là một phụ hồ ở Hà Nội, đã từng đến bệnh viện 3 lần với đủ cấp độ: từ uống thuốc vì được chẩn đoán u nang buồng trứng, cho đến ngày vào viện và nhận tin mình mắc ung thư, và rồi những ngày hoá trị, phẫu thuật,…. nhưng không mang đến kết quả lâu dài. Lần thứ 4, khi chị quyết định bỏ cuộc, bác Thăng đã tìm đến và đặt lên tay chị một cơ hội, với mức chi phí được bệnh viện hỗ trợ hoàn toàn. Chị Sau nhận lời, bởi chị không còn con đường nào khác, và bởi có lẽ, sự quả quyết và niềm tin của bác Thăng khi đó đã tạo nên sự dũng cảm để chị Sau tiếp tục chiến đấu đến cùng.
Và cái ngày chị Sau ra viện, bác Thăng đã rơi nước mắt. Không phải chỉ là giọt nước mắt hạnh phúc khi nhìn thấy nghiên cứu của mình đã thành công, mà còn bởi rồi từ đây, phương pháp này sẽ mở ra một định hướng mới cho điều trị ung thư, và rằng nhiều người sẽ được cứu, sẽ được sống tiếp cuộc đời còn dang dở của mình, một điều mà có lẽ họ đã nghĩ là không tưởng.
Một tâm hồn đáng kính
Nói về thành công của mình, bác Thăng khiêm nhường cho biết, thật ra để có được kết quả này - đó là cả một công lao của một tập thể. "Bác hay ví đây giống một dàn hợp xướng hoàn chỉnh, không thể người thì đàn, người thì saxophone mà mỗi người lại một phách khác nhau được. Ở đây, bác đóng vai trò như một nhạc trưởng, kết nối mọi người với nhau".
Đứng trước bác Thăng, có lẽ điều đầu tiên bạn cảm nhận cũng sẽ giống như chúng tôi, đó là sự nhỏ bé trước một con người vừa thông thái, vừa mẫn tiệp, vừa rất giản dị và vô cùng nhân ái. Bác đã dành cả cuộc đời mình để nghiên cứu, để tìm cách chữa cho những ca bệnh hiểm nghèo, những bệnh nhân đã cầm chắc án tử, như thể bác đã giành lấy hết trách nhiệm về phần mình. "Niềm vui lớn nhất của bác chính là khi bệnh nhân nở một nụ cười, và đặc biệt là khi bệnh nhân được ra viện khỏe mạnh, được về nhà trong điều kiện tốt nhất."
Trong buổi trò chuyện đầu tiên của chúng tôi và bác Thăng tại Hà Nội, bác đã chẳng thể giấu diếm sự tự hào xen lẫn trìu mến khi nhắc đến cán bộ tại bệnh viện TW Huế. "Có lẽ đây là văn hóa Huế. Nói thì quá chung chung, nhưng cho đến giờ phút này, các cháu cứ vào Huế, cứ thử đi lại trong bệnh viện một ngày mới thấy, thế nào là văn hoá Huế."
Mãi sau này, khi có dịp đến Huế và phỏng vấn các bệnh nhân ở đây, tôi mới hiểu là bác Thăng chẳng hề nói sai. Một bệnh nhân đến tái khám, kể với tôi bằng một cảm xúc vẫn đang nghèn nghẹn ở cổ. "Khi tôi truyền hoá chất, đêm nằm đau và mệt không ngủ được, cô điều dưỡng túc trực bên ngoài cứ ghé vào để kiểm tra bình truyền. Tôi nhớ mãi lúc cô điều dưỡng bước vào, chân đi tất, hóa ra là để lúc đi lại không gây tiếng động, làm bệnh nhân thức giấc".
"Mình nói 100 lần không bằng mình làm gương, mình không lấy tiền bệnh nhân, mình giúp đỡ họ một cách tận tình. Những hành động ấy sẽ đọng lại hơn 100 lần nói. Bác chưa bao giờ nhận quà hay cầm 1 đồng của bệnh nhân". Bác Thăng nghĩ một chút rồi bật cười: "Những ngày như ngày thầy thuốc Việt Nam, nhà bác có thể mang hoa tặng cả xóm."
Một điều nữa khiến chúng tôi phải nghiêng mình trước bác, đó là niềm say sưa trong học tập, trong nghiên cứu. Bác hào hứng chia sẻ với chúng tôi, sau khi phương pháp điều trị bằng tế bào gốc đi vào ổn định, bác sẽ bàn giao cho người khác để nghiên cứu các dự án nghiên cứu khác. "Khoa học chưa bao giờ là đủ. Khi mình tập trung nghiên cứu một lĩnh vực nào đó, mình cảm thấy say sưa tìm hiểu, đào sâu thêm và tìm tòi những điều mới. Không có một lĩnh vực nào mình biết hoàn chỉnh và mình phải cố gắng tìm đến nguồn cuội của nó. Khoa học chưa bao giờ là kết thúc, đặc biệt là trong Y học".
"Bác có 2 người thầy, khi nằm trên giường bệnh, thời gian chỉ còn 1 tháng nữa thôi, vậy mà thầy vẫn nằm trên giường đọc sách. Thầy của mình như vậy, mình cũng phải nhìn đó để cố gắng hơn. Họ chính là tấm gương thôi thúc bác phải tiếp tục học hỏi, tiếp tục nghiên cứu không ngừng".
Nếu hỏi tôi, tôi nhớ điều gì nhất khi nghĩ về bác Thăng, tôi sẽ nói đó là hình ảnh bác đi dọc hành lang bệnh viện, mỉm cười với tất cả những ai bác gặp, thỉnh thoảng ngâm nga một điệu hát và sẵn sàng dừng lại để trò chuyện với bệnh nhân hoặc một cô lao công của toà nhà. Vì gặp bác, tôi bỗng cảm thấy mình đầy ắp lòng tin, tin vào sự phát triển của Y học Việt Nam, tin vào trái tim của những người thầy thuốc chân chính, và tin rằng đâu đó trên cuộc đời này, vẫn còn có những người đang ngày đêm nghiên cứu, cống hiến cuộc đời mình cho khoa học, để âm thầm mở lối cho cả một thế hệ chúng tôi có đủ mạnh mẽ tiến về phía trước.
PGS.TS Nguyễn Duy Thăng là một trong 20 đề cử của hạng mục Top 10 nhân vật truyền cảm hứng của WeChoice Awards 2015.
Cổng bình chọn của WeChoice Awards 2015 chính thức được mở vào ngày 8/1 để độc giả tham gia vote cho những đề cử của mình tại tất cả các hạng mục trong khuôn khổ giải thưởng năm nay.
Ở giải thưởng WeChoice mùa 2, độc giả chỉ có thể bình chọn cho các đề cử qua app WeChoice Awards được tích hợp trong ứng dụng đọc tin Kenh14.vn. Download tại đây: trên IOS và trên Android.
Vào ngày 26/1, cổng bình chọn sẽ được đóng. Sau đó, BTC sẽ công bố những cái tên được vinh danh nằm trong các hạng mục giải thưởng của WeChoice Awards 2015 thông qua lễ trao giải được tổ chức tại Tp.HCM.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét