Trang

Dấu hiệu ung thư tuyến tiền liệt ít ai chú ý

www.ungthutuyentienliet.com/2012/03/ - Dấu hiệu ung thư tuyến tiền liệt ít ai chú ý

Những dấu hiệu nhỏ tưởng chừng không liên quan, nam giới vẫn có thể phát hiện và kịp thời chẩn đoán bệnh ung thư tiền liệt tuyến một cách sớm nhất.

1. Đi tiểu khó khăn

Điều này có hình thức như bạn mắc tiểu nhưng lại không thể đi được gì hoặc đi mà phải dừng lại đột ngột, cũng có thể là đi tiểu thường xuyên hơn. Một dấu hiệu khác là bạn cảm thấy khó dừng lại..Tuyến tiền liệt bao quanh niệu đạo. Vì vậy, thậm chí là một khối u rất nhỏ ở vị trí này có thể gây trở ngại khi đi tiểu hoặc xuất tinh.
Tuyến tiền liệt mở rộng trong nhiều người đàn ông có tuổi. Sự mở rộng này có thể gây ra vấn đề tiết niệu tương tự, có thể là viêm tuyến tiền liệt lành tính. Vì vậy, khám bác sĩ là cách thức chẩn đoán chính xác nhất.

2. Đau khi đi tiểu

Hiện tượng này có thể là do một khối u tuyến tiền liệt ép nên niệu đạo. Tuy nhiên, đau khi đi tiểu cũng là một triệu chứng của nhiễm trùng tuyến tiền liệt, được gọi là viêm tuyến tiền liệt hoặc tăng sản tuyến tiền liệt lành tính (BPH), đó là dạng mở rộng không ung thư của tuyến tiền liệt.

3. Máu trong nước tiểu

Dấu hiệu này ít phổ biến hơn, nhưng là một lý do để đi khám nam khoa ngay. Không cần phải máu nhiều, đôi khi chỉ là một vết máu hoặc màu hồng nhạt.
Một số loại bệnh nhiễm trùng đường tiết niệu có thể gây ra máu trong nước tiểu cũng, nhưng bác sĩ sẽ cần phải thực hiện các xét nghiệm để phân biệt với ung thư tuyến tiền liệt.
4. Khó khăn trong việc duy trì cương cứng

Một khối u tuyến tiền liệt có thể ngăn chặn tăng lưu lượng máu đến dương vật, để giúp cương cứng, hoặc nó có thể ngăn chặn sự cương cứng từ duy trì để xuất tinh. Mở rộng của tuyến tiền liệt và BPH cũng có thể gây ra điều này. Do đó, không hoảng sợ mà hãy kiểm tra y tế cẩn thận.

5. Máu trong tinh dịch

Giống như máu trong nước tiểu, dấu hiệu này không mấy dễ chú ý. Nó không phải là một lượng l máu lớn, giống như chỉ đủ để làm cho tinh dịch hơi hồng hoặc có vệt.

6. Táo bón mãn tính và các vấn đề đường ruột khác

Tuyến tiền liệt nằm bên dưới bàng quang và trước trực tràng. Do đó, một khối u ở vị trí này có thể gây trở ngại cho chức năng tiêu hóa. Tuy nhiên, đó là một tình huống con gà và quả trứng bởi vì táo bón mãn tính có thể góp phần mở rộng tuyến tiền liệt bằng cách gây áp lực trên tuyến này cũng như ngược lại.

Táo bón mãn tính và các vấn đề đường ruột cũng có thể là một chỉ báo sớm của ung thư ruột kết. Quy tắc chung là, nếu bạn đang bị táo bón hoặc các triệu chứng đường ruột khác không biến mất khi bạn thay đổi chế độ ăn uống thì bạn nên đi khám.

7. Thường xuyên đau ở lưng, hông, đùi trên

Dấu hiệu phổ biến của ung thư tuyến tiền liệt là đau ở lưng, xương chậu và hông. Bạn thường không giải thích được đau đớn. Một cách để phân biệt loại đau với đau thần kinh tọa và đau lưng thấp là nó có thể cảm thấy như một cơn đau âm ỉ. Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng bất kỳ lưng dưới hoặc đau hông mà không rõ nguyên nhân thì cần thiết phải đi khám.

8. Tiểu đêm

Đây là một trong các triệu chứng ít ai để ý mà khi quý ông được chẩn đoán là mắc ung thư tuyến tiền liệt mới nhớ ra. Nếu bạn thấy mình thức dậy nhiều hơn một lần một đêm để tiểu tiện thì cần đi khám sức khỏe ngay.

9. Tiểu rắc

Một vài quý ông bị rò rỉ nước tiểu không thể tự chủ. Triệu chứng này không mấy phổ biến nhưng cũng đáng lưu y.

10. Bạn đang trên 50 và có yếu tố nguy cơ

Lịch sử bệnh của gia đình, đặc biệt là một người cha có ung thư tuyến tiền liệt hay bạn đang thừa cân, ăn một chế độ ăn giàu chất béo và hút thuốc lá là những yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.
Một thông tin nhiều người đàn ông không biết đó là nếu phụ nữ trong gia đình của bạn có lịch sử bệnh ung thư vú thì bạn có thể mang gen bị lỗi làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt.

Xét nghiệm nước tiểu có thể dự báo ung thư tuyến tiền liệt

ANTĐ - Các nhà nghiên cứu vừa công bố một xét nghiệm nước tiểu có thể giúp các bác sĩ phát hiện ung thư tuyến tiền liệt và đánh giá tốt hơn lựa chọn điều trị cho bệnh nhân.

Tiến sĩ Scott Tomlins thuộc Trường Đại học Hệ thống Y tế Michigan cho biết xét nghiệm này có thể giúp bác sĩ và bệnh nhân quyết định việc làm sinh thiết ngay hay có thể trì hoãn.

Xét nghiệm mới này tìm kiếm 2 chỉ báo di truyền (TMPRSS2:ERG và PCA3) có liên quan với ung thư tuyến tiền liệt.

Tiến sĩ Scott Tomlins cho biết xét nghiệm PSA (kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt) có thể chỉ báo ung thư tuyến tiền liệt, song không đáng tin cậy và thường cho kết quả dương tính giả hoặc âm tính giả. Hai chỉ báo di truyền mới này có thể đáng tin cậy hơn trong việc dự báo ung thư tuyến tiền liệt.

Nghiên cứu được công bố trên tạp chí Science Translational Medicine ngày 3/8.

Ung thư tuyến tiền liệt

Bách khoa toàn thư mở Wikipedia - vi.wikipedia.org
 
Ung thư tuyến tiền liệt
Classification and external resources

Ảnh chụp hiển vi của khối u tuyến tiền liệt, loại acinar, là loại ung thư tuyến tiền liệt phổ biến nhất
ICD-10 C61.
 
ICD-9 185
 
OMIM 176807
 
DiseasesDB 10780
 
MedlinePlus 000380
 
eMedicine radio/574
 
MeSH D011471
 
Ung thư tuyến tiền liệt hay còn gọi là ung thư tiền liệt tuyến là một dạng của ung thư phát triển trong tuyến tiền liệt, một tuyến trong hệ sinh dục nam. Ung thư tuyến tiền liệt phát triển chậm, tuy nhiên, có những trường hợp ung thư di căn.[1] Các tế bào ung thư có thể di căn (lan) từ tuyến tiền liệt sang các bộ phận khác của cơ thể, đặc biệt là vào xương và các hạch bạch huyết. Ung thư tuyến tiền liệt có thể gây đau đớn và khó khăn trong việc đi tiểu, quan hệ tình dục gặp vấn đề, hoặc rối loạn chức năng cương dương. Các triệu chứng khác có khả năng phát triển trong giai đoạn sau của bệnh.
Tỷ lệ phát hiện ung thư tuyến tiền liệt khác sau đối với các vùng trên toàn thế giới, ở miền Nam ÁĐông Nam Á ít hơn ở Châu Âu, và đặc biệt là Hoa Kỳ.[2] Ung thư tuyến tiền liệt có xu hướng phát triển ở nam giới trong độ tuổi 50. Mặc dù nó là một trong các loại ung thư phổ biến nhất ở nam giới, nhưng nhiều người không bao giờ có các triệu chứng, không trải qua điều trị, và cuối cùng chết vì các nguyên nhân khác. Nguyên nhân là do ung thư tuyến tiền liệt, phát triển chậm trong nhiều trường hợp, triệu chứng tự do, và những người đàn ông mắc bệnh thường lớn tuổi nên thường chết vì các nguyên nhân không liên quan đến bệnh ung thư tuyến tiền liệt, chẳng hạn như bệnh tim/mạch, viêm phổi, hay chết già. Khoảng 2/3 các trường hợp ung thư tiến tiền liệt là phát triển chậm, 1/3 còn lại phát triển nhanh chóng và di căn.[3]
Sự phát triển của ung thư tuyến tiền liệt liên quan đến nhiều yếu tố, bao gồm cả yếu tố di truyền và chế độ ăn uống. Ung thư tuyến tiền liệt có thể được phát hiện từ các triệu chứng, kiểm tra thể chất, xét nghiệm kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (PSA), hoặc sinh thiết. Xét nghiệm PSA làm tăng khả năng phát hiện bệnh ung thư tuy nhiên vẫn không làm giảm tỷ lệ tử vong.[4] Trường hợp nghi ngờ bị ung thư tuyến tiền liệt thường được xác định bằng cách lấy sinh thiết tuyến tiền liệt và kiểm tra dưới kính hiển vi. Các kiểm tra sau đó, chẳng hạn như quét CT và chụp cắt lớp xương, có thể được thực hiện để xác định di căn.
Điều trị cho bệnh ung thư tuyến tiền liệt có thể lựa chọn các phương pháp như phẫu thuật, xạ trị, xạ phẫu, và liệu pháp proton. Các phương pháp điều trị khác, chẳng hạn như liệu pháp nội tiết tố, hóa trị, phương pháp cắt lạnh, và HIFU (sóng siêu âm tập trung cường độ mạnh), tùy thuộc vào kịch bản lâm sàng và kết quả mong muốn.
Vấn đề tuổi tác và sức khỏe cơ bản của người đàn ông, mức độ di căn, hình dạng khối u dưới kính hiển vi, và đáp ứng của bệnh ung thư với các điều trị ban đầu rất quan trọng trong việc tiên lượng bệnh. Quyết định có hay không điều trị ung thư tuyến tiền liệt cục bộ (khối u được chứa trong tuyến tiền liệt) với mục đích chữa bệnh là sự đánh đổi của bệnh nhân giữa lợi ích được mong đợi và những ảnh hưởng có hại về thời hạn tồn tại và chất lượng cuộc sống của bệnh nhân.

Mục lục

Tổng quan

Prostatelead.jpg
Tuyến tiền liệt là một phần của hệ sinh dục nam có nhiệm vụ sản xuất và lưu trữ tinh dịch. Ở nam giới trưởng thành, tuyến tiền liệt điển hình dài khoảng 3 cm và nặng khoảng 20gr.[5] Nó nằm trong khung chậu, dưới bàng quang và trước trực tràng. Tuyến tiền liệt bao quanh một phần của niệu đạo là ống dẫn nước tiểu từ bàng quang trong quá trình tiểu tiện và tinh dịch trong quá trình xuất tinh.[6] Do vị trí của nó, cho nên các bệnh về tuyến tiền liệt thường ảnh hưởng đến việc đi tiểu, xuất tinh, hiếm khi ảnh hưởng đến đại tiện. Tuyến tiền liệt có nhiều tuyến nhỏ sản xuất khoảng 20% chất lỏng tạo thành tinh dịch.[7] Trong bệnh ung thư tuyến tiền liệt, các tế bào của các tuyến tiền liệt biến đổi thành tế bào ung thư. Các tuyến tiền liệt cần các kích thích tố nam được gọi chung là androgen để có thể hoạt động. Androgen bao gồm; testosterone được sản xuất trong tinh hoàn, dehydroepiandrosterone được sản xuất tại các tuyến thượng thận, và dihydrotestosterone được chuyển đổi từ testosterone trong chính tuyến tiền liệt. Androgen cũng là tác nhân ảnh hưởng về các đặc điểm giới tính thứ cấp như râu và cơ bắp.

Phân loại

Một phần quan trọng của việc đánh giá bệnh ung thư tuyến tiền liệt là xác định các giai đoạn của bệnh, hoặc xác định ung thư đã di căn bao xa. Biết được giai đoạn sẽ giúp xác định chẩn đoán và rất hữu ích khi lựa chọn phương pháp điều trị. Phổ biến nhất là hệ thống phân loại TNM (viết tắt của các từ khối u/hạch/di căn tumor/nodes/metastasis) gồm 4 giai đoạn . Các thông tin của hệ thống này bao gồm kích thước của khối u, số lượng hạch bạch huyết có liên quan, và sự hiện diện của bất kỳ di căn nào khác.[8]
Sự phân biệt quan trọng nhất đối với bất kỳ hệ thống chia giai đoạn ung thư nào đó là ung thư vẫn còn nằm giới hạn trong tuyến tiền liệt hay đã di căn ra ngoài. Trong hệ thống TNM, giai đoạn ung thư lâm sàng T1 và T2 chỉ nằm trong tuyến tiền liệt, còn T3 và T4 có nghĩa là ung thư đã di căn sang nơi khác. Có thể thực hiện thêm một số thử nghiệm để tìm ra bằng chứng di căn, bao gồm chụp cắt lớp điện toán (CT) để đánh giá lan truyền trong khung xương chậu, sử dụng kỹ thuật ảnh nhận phóng xạ (scintigraphy) xương để tìm các di căn đến xương, và chụp cộng hưởng từ xoắn ốc nội trực tràng (endorectal coil MRI) để xem xét cẩn thận các nang tuyến tiền liệt và túi tinh.
Sau khi làm sinh thiết tuyến tiền liệt, một nhà nghiên cứu bệnh học sẽ xem xét các mẫu dưới kính hiển vi. Nếu có sự hiện diện của ung thư , nhà nghiên cứu bệnh học sẽ báo cáo tình trạng cấp độ của khối u. Cấp độ này cho biết có bao nhiêu tế bào khối u khác nhau từ các mô tuyến tiền liệt bình thường và cho biết khối u có khả năng phát triển nhanh như thế nào . Hệ thống Gleason được sử dụng để chia cấp độ các khối u tuyến tiền liệt từ 2 cho đến 10. Chia giai đoạn theo kiểu Whitmore-Jewett là một phương pháp khác đôi khi cũng được sử dụng.

Các dấu hiệu và triệu chứng

Ung thư tuyến tiền liệt thời kỳ đầu thường không có triệu chứng. Nó thường được chuẩn đoán khi nhận thấy PSA cao trong một lần khám bệnh định kỳ.
Tuy nhiên, đôi khi ung thư tuyến tiền liệt có thể gây ra một số triệu chứng thường tương tự như của các bệnh khác ví dụ như bệnh tăng sản tuyến tiền liệt lành tính. Các triệu chứng bao gồm đi tiểu thường xuyên, đi tiểu đêm, khó tiểu hoặc tiểu ngắt quãng, tiểu ra máu (máu trong nước tiểu), đau khi tiểu.
Bởi vì tuyến tiền liệt bao quanh 1 phần của đường niệu đạo cho nên ung thư tuyến tiền liệt có thể làm rối loạn chức năng tiết niệu và tuyến tiền liệt cũng tiết chất dịch tao thành tinh dịch theo ống dẫn tinh vào niệu đạo cho nên ung thư tuyến tiền liệt cũng có thể gây ra rối loạn các chức năng và hoạt động tình dục, chẳng hạn như khó đạt được sự cương cứng hoặc đau khi xuất tinh.[9]
Ung thư tuyến tiền liệt ở các giai đoạn sau có thể di căn sang các bộ phận khác của cơ thể và gây ra nhiều triệu chứng khác. Các triệu chứng thường gặp nhất là đau xương, thường ở các đốt sống (xương cột sống), xương chậu, hay xương sườn. Ung thư còn di căn vào các xương khác, thường là phần gần đầu của xương đùi. Ung thư tuyến tiền liệt di căn vào cột sống cũng có thể đè lên tủy sống gây ra yếu chânđại tiện, tiểu tiện không tự chủ.[10]

Nguyên nhân

Vẫn chưa biết chính xác các nguyên nhân cụ thể gây nên bệnh ung thư tuyến tiền liệt,[11] tuy nhiên các yếu tố nguy cơ chính là vấn đề tuổi tác và tiền sử trong gia đình có người mắc bệnh. Ung thư tuyến tiền liệt rất hiếm gặp ở đàn ông trẻ hơn 45 tuổi, nhưng càng về già thì tỉ lệ mắc bệnh càng tăng. Độ tuổi trung bình tại thời điểm chẩn đoán là 70,[12] tuy nhiên nhiều người đàn ông không bao giờ biết họ có bệnh ung thư tuyến tiền liệt. Nghiên cứu khám nghiệm tử thi của một số đàn ông Trung Quốc, Đức, Israel, Jamaica, Thụy Điển, và Uganda bị chết vì các nguyên nhân khác thì đồng thời phát hiện thấy bệnh ung thư tuyến tiền liệt trong 30% các xác chết nam ở tuổi 50, và 80% trong độ tuổi 70.[13] Nam giới trong những gia đình có lịch sử mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt mức độ 1 có nguy cơ mắc bệnh cao gấp đôi so với những người trong gia đình không có ai bị ung thư tuyến tiền liệt.[14] Một người nếu có anh hoặc em trai mắc bệnh thì có nguy cơ cao hơn là có cha mắc bệnh. Ở Hoa Kỳ năm 2005 ước tính có khoảng 230.000 trường hợp mắc bệnh mới phát hiện và 30.000 ca tử vong do ung thư tuyến tiền liệt.[15] Nam giới bị cao huyết áp sẽ có nhiều khả năng phát triển ung thư tuyến tiền liệt.[16] Một nghiên cứu trong năm 2010 phát hiện ra tế bào đáy của tuyến tiền liệt là những nơi phổ biến nhất để bắt đầu cho những mầm mống của bệnh ung thư tuyến tiền liệt.[17]

Di truyền

Sự liên đới với chủng tộc, gia đình và các biến thể gen cụ thể đã đưa ra vấn đề về ảnh hưởng của di truyền với nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt. Nam giới có mối quan hệ cấp độ 1[18] với một người mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt thì có nguy cơ mắc bệnh cao hơn gấp 2, và những người có tới 2 thân nhân quan hệ cấp độ 1 mắc bệnh thì có nguy cơ tăng gấp 5 so với những người không có tiền sử trong gia đình có người mắc bệnh. Tại Hoa Kỳ, tỉ lệ đàn ông da đen mắc và chết vì bệnh ung thư tuyến tiền liệt cao hơn so với đàn ông gia trắng hoặc người gốc Tây Ban Nha.[19] [20] Những người đàn ông gốc Tây Ban Nha da trắng có tỷ lệ mắc và tử vong do ung thư tuyến tiền liệt chỉ bằng 1/3 so với người Tây Ban Nha da màu. Nếu có anh, em trai hoặc bố bị ung thư tuyến tiền liệt, thì có nguy cơ mắc bệnh gấp đôi.[21] Các nghiên cứu về cặp song sinhScandinavia đã đưa ra nhận xét rằng 40% nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt có thể được giải thích bằng yếu tố di truyền.[22]
Không có một gen duy nhất nào ảnh hưởng trực tiếp đến ung thư tuyến tiền liệt mà nó liên quan đến nhiều gen khác nhau. Đột biến trong gen ức chế khối u ở người BRCA1 và BRCA2 là yếu tố quan trọng gây nguy cơ cho ung thư buồng trứngung thư vú ở phụ nữ, cũng có liên quan đến bệnh ung thư tuyến tiền liệt.[23] Các gen khác cũng liên quan như gen di truyền ung thư tuyến tiền liệt 1 (HPC1), các thụ thể androgen, và thụ thể vitamin D.[19] Gen hợp nhất nhân tố phiên mã gia đình TMPRSS2-ETS, cụ thể là TMPRSS2-ERG hoặc TMPRSS2-ETV1/4, thúc đẩy quá trình tăng trưởng tế bào ung thư.[24]

Chú thích

  1. ^ "ACS :: What Is Prostate Cancer?" American Cancer Society :: Information and Resources for Cancer: Breast, Colon, Prostate, Lung and Other Forms. Web. 15 June 2010. “?”
     
    . Truy cập 9 tháng 8 năm 2010.
  2. ^ “IARC Worldwide Cancer Incidence Statistics—Prostate”
     
    . JNCI Cancer Spectrum. Oxford University Press (19 tháng 12 năm 2001). Bản chính
     
    lưu trữ 5 tháng 2 năm 2006.
    Retrieved on 5 April 2007 through the Internet Archive
  3. ^ Sam Lister (11 tháng 2 năm 2009). “Urine test could speed treatment of prostate cancer”
     
    . The Sunday Times. Truy cập 9 tháng 8 năm 2010.
  4. ^ Djulbegovic M, Beyth RJ, Neuberger MM, et al. (2010). "Screening for prostate cancer: systematic review and meta-analysis of randomised controlled trials
     
    ". BMJ 341: c4543. doi:10.1136/bmj.c4543
     
    . PMC 2939952
     
    . PMID 20843937
     
    .
  5. ^ Aumüller, G. (1979). Prostate Gland and Seminal Vesicles. Berlin-Heidelberg: Springer-Verlag.
  6. ^ Moore, K.; Dalley, A. (1999). Clinically Oriented Anatomy. Baltimore, Maryland: Lippincott Williams & Wilkins. ISBN 0683061321.
  7. ^ Steive, H. (1930). "Männliche Genitalorgane". 'Handbuch der mikroskopischen Anatomie des Menschen. Vol. VII Part 2. Berlin: Springer. 1–399.
  8. ^ BMJ Group (8 tháng 12 năm 2009). “Prostate cancer: How far has your cancer spread? The TNM system”
     
    . Guardian.co.uk. Truy cập 9 tháng 8 năm 2010.
  9. ^ Miller DC, Hafez KS, Stewart A, Montie JE, Wei JT (September 2003). "Prostate carcinoma presentation, diagnosis, and staging: an update form the National Cancer Data Base". Cancer 98 (6): 1169–78. doi:10.1002/cncr.11635
     
    . PMID 12973840
     
    .
  10. ^ van der Cruijsen-Koeter, IW; Vis AN, Roobol MJ, Wildhagen MF, de Koning HJ, van der Kwast TH, Schroder FH (July 2005). "Comparison of screen detected and clinically diagnosed prostate cancer in the European randomized study of screening for prostate cancer, section rotterdam". Urol 174 (1): 121–5. doi:10.1097/01.ju.0000162061.40533.0f
     
    . PMID 15947595
     
    .
  11. ^ Hsing AW, Chokkalingam AP (2006). "Prostate cancer epidemiology". Frontiers in Bioscience 11: 1388–413. doi:10.2741/1891
     
    . PMID 16368524
     
    .
  12. ^ Hankey, BF; Feuer EJ, Clegg LX, Hayes RB, Legler JM, Prorok PC, Ries LA, Merrill RM, Kaplan RS (June 16 1999). "Cancer surveillance series: interpreting trends in prostate cancer—part I: Evidence of the effects of screening in recent prostate cancer incidence, mortality, and survival rates". J Natl Cancer Inst 91 (12): 1017–24. doi:10.1093/jnci/91.12.1017
     
    . PMID 10379964
     
    .
  13. ^ Breslow, N; Chan CW, Dhom G, Drury RA, Franks LM, Gellei B, Lee YS, Lundberg S, Sparke B, Sternby NH, Tulinius H. (November 15 1977). "Latent carcinoma of prostate at autopsy in seven areas. The International Agency for Research on Cancer, Lyons, France". Int J Cancer 20 (5): 680–8. doi:10.1002/ijc.2910200506
     
    . PMID 924691
     
    .
  14. ^ Zeegers MP; Jellema, A; Ostrer, H (2003). "Empiric risk of prostate carcinoma for relatives of patients with prostate carcinoma: a meta-analysis". Cancer 97 (8): 1894–903. doi:10.1002/cncr.11262
     
    . PMID 12673715
     
    .
  15. ^ Jemal A, A; Murray T, Ward E, Samuels A, Tiwari RC, Ghafoor A, Feuer EJ, Thun MJ (Jan-February 2005). "Cancer statistics, 2005". CA Cancer J Clin 55 (1): 10–30. doi:10.3322/canjclin.55.1.10
     
    . PMID 15661684
     
    .
    Erratum in: CA Cancer J Clin. 2005 Jul-Aug;55(4):259
  16. ^ Martin RM, Vatten L, Gunnell D, Romundstad P (March 2010). "Blood pressure and risk of prostate cancer: cohort Norway (CONOR)". Cancer Causes Control 21 (3): 463–72. doi:10.1007/s10552-009-9477-x
     
    . PMID 19949849
     
    .
  17. ^ Witte ON, et al. (July 2010). "Growth Regulation of Hematopoietic and Epithelial Cancers and the Immune Response
     
    ". Science 329 (5991): 568–571. doi:10.1126/science.1189992
     
    . PMC 2917982
     
    . PMID 20671189
     
    .
  18. ^ Chia theo cấp độ quan hệ (degree of relationship), trong đó nếu có 50% gen giống nhau với các cá thể trong gia đình thì gọi là độ 1, như với cha mẹ, anh chị em, con cái.
  19. ^ a b Gallagher RP, Fleshner N (October 1998). "Prostate cancer: 3. Individual risk factors
     
    ". CMAJ 159 (7): 807–13. PMC 1232741
     
    . PMID 9805030
     
    .
  20. ^ Hoffman RM, Gilliland FD, Eley JW, Harlan LC, Stephenson RA, Stanford JL, Albertson PC, Hamilton AS, Hunt WC, Potosky AL (March 2001). "Racial and ethnic differences in advanced-stage prostate cancer: the Prostate Cancer Outcomes Study". J. Natl. Cancer Inst. 93 (5): 388–95. doi:10.1093/jnci/93.5.388
     
    . PMID 11238701
     
    .
  21. ^ Steinberg GD, Carter BS, Beaty TH, Childs B, Walsh PC (1990). "Family history and the risk of prostate cancer". Prostate 17 (4): 337–47. doi:10.1002/pros.2990170409
     
    . PMID 2251225
     
    .
  22. ^ Lichtenstein P, Holm NV, Verkasalo PK, Iliadou A, Kaprio J, Koskenvuo M, Pukkala E, Skytthe A, Hemminki K (July 2000). "Environmental and heritable factors in the causation of cancer--analyses of cohorts of twins from Sweden, Denmark, and Finland". N. Engl. J. Med. 343 (2): 78–85. doi:10.1056/NEJM200007133430201
     
    . PMID 10891514
     
    .
  23. ^ Struewing JP, Hartge P, Wacholder S, Baker SM, Berlin M, McAdams M, Timmerman MM, Brody LC, Tucker MA (May 1997). "The risk of cancer associated with specific mutations of BRCA1 and BRCA2 among Ashkenazi Jews". N. Engl. J. Med. 336 (20): 1401–8. doi:10.1056/NEJM199705153362001
     
    . PMID 9145676
     
    .
  24. ^ Beuzeboc P, Soulié M, Richaud P, Salomon L, Staerman F, Peyromaure M, Mongiat-Artus P, Cornud F, Paparel P, Davin JL, Molinié V (December 2009). "[Fusion genes and prostate cancer. From discovery to prognosis and therapeutic perspectives]" (French). Prog. Urol. 19 (11): 819–24. doi:10.1016/j.purol.2009.06.002
     
    . PMID 19945666
     
    .

 http://www.medinet.hochiminhcity.gov.vn/


TS. BS. Vũ Văn Vũ
Bệnh Viện Ung Bướu TP. HCM

I.
DẤU HIỆU SINH HỌC UNG THƯ LÀ GÌ?
Các dấu hiệu sinh học ung thư là các chất sinh học có thể tìm thấy được khi cơ thể mắc ung thư. Các dấu hiệu sinh học có thể được trực tiếp tạo ra từ các tế bào ung thư hoặc do cơ thể phản ứng lại ung thư hay các tình trạng khác. Các dấu hiệu sinh học thường được phát hiệu trong máu hoặc nước tiểu nhưng cũng có thể được tìm thấy ở khối bướu và các mô khác. Phần nhiều các dấu hiệu sinh học có bản chất hóa học là prôtêin.
Hiện có rất nhiều các dấu hiệu sinh học ung thư khác nhau. Một số dấu hiệu sinh học chỉ hiện diện đặc thù trên một loại ung thư nào đó, nhưng nhiều dấu hiệu sinh học khác có thể tìm thấy ở nhiều loại ung thư khác nhau.
Các dấu hiệu sinh học ung thư được xác định bằng phương pháp xét nghiệm trong phòng thí nghiệm. Mẫu máu hoặc nước tiểu của bệnh nhân được cho tiếp xúc với các kháng thể đặc hiệu có tính phản ứng chuyên biệt với các dấu hiệu sinh học ung thư có bản chất hóa học là prôtêin. Một số các xét nghiệm dấu hiệu sinh học sử dụng các phương pháp xét nghiệm đặc biệt khảo sát trên ngay chính mẫu mô ung thư.
Sự hiện diện đơn thuần của các dấu hiệu sinh học ung thư phát hiện qua các xét nghiệm không đủ để đưa ra kết luận là bệnh nhân có mắc bệnh ung thư. Đa số các dấu hiệu sinh học không chỉ được tạo ra bởi các tế bào ung thư mà còn bởi các tế bào bình thường của cơ thể. Một số tình trạng tiền ung thư có thể làm gia tăng các dấu hiệu sinh học ở mức cao hơn bình thường và ngược lại có nhiều bệnh nhân ung thư lại không có sự gia tăng các dấu hiệu sinh học ung thư.
Do những lý do trên mà hiện nay chỉ có một số dấu hiệu sinh học ung thư được dùng rộng rãi trên lâm sàng. Thầy thuốc sử dụng kết quả dấu hiệu sinh học ung thư kết hợp với các ghi nhận triệu chứng lâm sàng, khám thực thể bệnh nhân và các xét nghiệm chẩn đoán hình ảnh hoặc sinh hóa khác.
Trong những năm gần đây, khái niệm dấu hiệu sinh học ung thư được mở rộng hơn nhờ các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới. Các nhà khoa học có thể khảo sát chi tiết vật liệu di truyền (các gen và prôtein) ở mức phân tử và bắt đầu tìm hiểu ảnh hưởng của toàn bộ kiểu gen hoặc toàn bộ kiểu cấu trúc prôtêin trên nhiều bệnh trong đó có ung thư thay cho ảnh hưởng của một vài gen hoặc một vài dấu hiệu sinh học như trước đây.
II. VAI TRÒ CỦA CÁC DẤU HIỆU SINH HỌC UNG THƯ?
A. Tầm soát và chẩn đoán sớm
Tầm soát là việc rà tìm ung thư trong cộng đồng người bình thường, chưa có triệu chứng gì liên quan đến ung thư. Chẩn đoán sớm là phát hiện được bệnh ung thư vào giai đoạn sớm khi bệnh còn nhiều khả năng chưa lan rộng và còn cơ may điều trị khỏi. Mặc dù, các dấu hiệu sinh học thoạt tiên được phát triển với mục tiêu nhằm để phục vụ cho việc phát hiện sớm ung thư trên người chưa có triệu chứng, nhưng cho đến hiện nay chỉ có rất ít dấu hiệu sinh học đáp ứng được yêu cầu này.
Một dấu hiệu sinh học ung thư “hoàn hảo” như người ta trông đợi phải có tính chất nhạy bén dùng để phát hiện ung thư sớm trên người không có triệu chứng, có tính đặc hiệu chỉ phát hiện được trên người có mắc ung thư, phải giúp xác định vị trí ung thư ở đâu, mức độ lan tràn bệnh thế nào và phương pháp điều trị nào sẽ mang lại hiệu quả cao nhất. Rất tiếc là cho đến hiện nay chưa có bất kỳ một dấu hiệu sinh học ung thư nào có đủ các tính chất trên.
Hiện nay, dấu hiệu sinh học được dùng rộng rãi nhất trong tầm soát và phát hiện ung thư là xét nghiệm tìm PSA (prostate-specific antigen: kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt) trong máu nam giới cao tuổi, để tầm soát ung thư tiền liết tuyến. Xét nghiệm này được dùng song hành với việc khám tiền liệt tuyến bằng ngón tay qua trực tràng. Bệnh nhân mắc ung thư tiền liệt tuyến thường có PSA cao trong máu, nhưng PSA cao còn có thể gặp trong nhiều bệnh lý lành tính khác của tiền liệt tuyến và ngược lại kết quả PSA bình thường trong máu không có nghĩa là không có bệnh ung thư. Do vậy, người ta còn đang bàn cãi nhiều vấn đề liên quan đến tầm soát ung thư tiền liệt tuyến bằng xét nghiệm PSA và nhiều cải tiến kỹ thuật đang được nghiên cứu áp dụng để tăng tính hiệu quả của xét nghiệm này.
Ngoài PSA, hiện chưa có dấu hiệu sinh học nào khác hữu ích cho tầm soát và chẩn đoán sớm ung thư trên cộng đồng người bình thường. Một vài dấu hiệu sinh học đặc biệt có thể giúp ích cho chẩn đoán ung thư sớm trên những nhóm bệnh nhân có nguy cơ mắc ung thư cao (như AFP giúp chẩn đoán ung thư gan trên bệnh nhân viêm gan siêu vi mạn tính…).
B. Chẩn đoán ung thư 
Người ta không dùng các dấu hiệu sinh học để chẩn đoán ung thư. Ung thư được  chẩn đoán xác định dựa vào giải phẫu bệnh lý được thực hiện qua việc khảo sát dưới kính hiển vi hình ảnh và cách sắp xếp của các tế bào được lấy ra từ bướu bằng nhiều kỹ thuật sinh thiết khác nhau. Tuy vậy, các dấu hiệu sinh học cũng có giá trị tham khảo giúp tăng khả năng chẩn đoán xác định ung thư. Trong nhiều trường hợp ung thư đã lan tràn, các dấu hiệu sinh học có thể giúp định vị vị trí khởi đầu của ung thư.
Trong trường hợp một bệnh nhân nữ có tổn thương bướu lan tràn toàn vùng chậu và ổ bụng, kết quả định lượng CA 125 trong máu cao gợi ý ung thư bắt nguồn từ buồng trứng, cho dù ngay cả phẫu thuật cũng không xác định được vị trí ban đầu của bướu là ở đâu. Việc chẩn đoán cơ quan xuất phát bệnh ung thư trong trường hợp này có ý nghĩa quan trọng giúp lựa chọn được cách điều trị thích hợp.
Một thí dụ khác là dấu hiệu sinh học alpha fetoprotein (AFP) thường được dùng trong chẩn đoán ung thư gan nguyên phát. Lượng AFP cao trong máu có thể gặp trong nhiều bệnh lành tính của gan nhưng khi AFP tăng cao tới một mức độ nào đó thầy thuốc có thể chẩn đoán là ung thư gan (ngay cả khi không có kết quả sinh thiết).
C. Định tiên lượng bệnh ung thư
Một số bệnh ung thư tăng trưởng và lan tràn nhanh hơn một số các bệnh ung thư khác. Nhưng ngay cả trong cùng một loại ung thư (ung thư vú chẳng hạn), mỗi bệnh nhân lại có diễn tiến bệnh nhanh chậm và đáp ứng với điều trị nhiều ít khác nhau. Một số dấu hiệu sinh học mới có thể giúp tiên liệu trước được mức độ ác tính nhiều ít của ung thư và hiệu quả đáp ứng với một số thuốc đặc biệt nào đó.
D. Đánh giá hiệu quả của điều trị
Một trong những áp dụng quan trọng nhất của các dấu hiệu sinh học là để theo dõi điều trị ung thư, đặc biệt là trong các trường hợp bệnh đã lan tràn. Theo dõi sự thay đổi theo điều trị của các dấu hiệu sinh học chuyên biệt cho một loại ung thư nào đó sẽ thuận tiện và ít tốn kém hơn là phải làm đi làm lại các xét nghiệm khác như X quang, CT scan, xạ hình xương, v.v…
Lượng các dấu hiệu sinh học trong máu giảm xuống là biểu hiện cho thấy bệnh có đáp ứng với phương pháp điều trị đang tiến hành. Ngược lại, khi lượng các dấu hiệu sinh học tăng lên ám chỉ việc điều trị không hiệu quả và cần phải thay đổi. Có một ngoại lệ là trong những trường hợp rất nhạy với hóa trị, các tế bào ung thư bị tiêu diệt bởi thuốc với số lượng nhiều ngay một lúc sẽ phóng thích một lượng lớn các dấu hiệu sinh học và làm tăng tạm thời kết quả định lượng dấu hiệu sinh học trong máu.
E. Phát hiện tái phát
Các dấu hiệu sinh học cũng còn được dùng để phát hiện ung thư tái phát sau điều trị. Một số dấu hiệu sinh học đã chứng tỏ hữu ích trong lĩnh vực này gồm:
§   Kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (prostate specific antigen (PSA)) cho ung thư tiền liệt tuyến.
§   Human chorionic gonadotropin (HCG) cho bướu đệm nuôi và bướu tế bào mầm.
§   Alpha fetoprotein (AFP) cho bướu tế bào mầm cancers.
§   CA 125 cho ung thư biểu mô buồng trứng.
§   Carcinoembryonic antigen (CEA) cho ung thư đại-trực tràng.
Một số trường hợp ung thư vú sau điều trị có tình trạng tăng CA 15-3 trong máu một thời gian trước khi có biểu hiện bệnh tái phát trên lâm sàng. Hiện nay, chưa có bằng chứng cho thấy việc khởi sự điều trị ngay khi có tăng CA 15-3 làm tăng hiệu quả sống còn. Do vậy, ung thư vú tái phát được chẩn đoán và xử trí dựa vào triệu chứng lâm sàng hoặc hình ảnh học thường xuất hiện muộn hơn 6 tháng so với tăng CA 15-3 trong máu.
Do các tính chất trên nên hiện thời các dấu hiệu sinh học được dùng chủ yếu để theo dõi đánh giá điều trị các ung thư giai đoạn tiến xa hơn là theo dõi tái phát các ung thư giai đoạn sớm có khả năng chữa khỏi sau điều trị triệt để.
III. KHI NÀO CẦN LÀM XÉT NGHIỆM DẤU HIỆU SINH HỌC?
Chỉ định xét nghiệm các dấu hiệu sinh học tùy theo từng loại ung thư. Thông thường, người ta tiến hành xét nghiệm các dấu hiệu sinh học ung thư vào lúc chẩn đoán, trước, trong và sau điều trị. Sau khi hoàn tất điều trị, bệnh nhân tiếp tục được xét nghiệm các dấu hiệu sinh học ung thư trong quá trình theo dõi định kỳ nhiều năm sau đó. Sự thay đổi các dấu hiệu sinh học trong thời gian đang điều trị ung thư có ý nghĩa phản ánh hiệu quả của việc điều trị.
Giá trị định lượng dấu hiệu sinh học có thể biến đổi nhiều theo thời gian. Việc theo dõi so sánh sự biến đổi này mới thực sự có ý nghĩa hơn là dựa theo giá trị của một lần xét nghiệm duy nhất. Theo đó để dễ so sánh các lần xét nghiệm dấu hiệu sinh học nên được thực hiện bởi cùng phòng xét nghiệm và sử dụng cùng đơn vị đo lường thí dụ như ng/mL (nanogram/milliliter) hay U/mL (đơn vị /milliliter).
IV. LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN DẤU HIỆU SINH HỌC UNG THƯ
Dấu hiệu sinh học ung thư được khám phá đầu tiên là human chorionic gonadotropin (HCG), một dấu hiệu sinh học thường được dùng để chẩn đoán  tình trạng mang thai. Phụ nữ có tử cung lớn sau chấm dứt thai kỳ được xét nghiệm HCG. Lượng HCG cao trong máu có thể là một biểu hiện của bệnh ung thư lá nhau vì các tế bào ung thư có nguồn gốc từ lá nhau tiếp tục tạo HCG. Một số ung thư tinh hoàn và buồng trứng có thành phần tế bào xuất phát từ tế bào mầm cũng tiết ra HCG. Vì thế, HCG rất hữu ích trong chẩn đoán và theo dõi điều trị các loại ung thư đặc biệt này.
Các ung thư đệm nuôi có nguồn gốc từ lá nhau hoặc tế bào mầm kể trên chiếm một tỉ lệ rất nhỏ trong các ung thư nói chung và vì vậy người ta vẫn phải nỗ lực tìm kiếm một dấu hiệu sinh học nào đó có mặt thường xuyên và phổ biến trong các ung thư thường gặp ở người như ung thư ruột, vú, phổi. Một xét nghiệm máu đơn giản giúp phát hiện các ung thư này ở giai đoạn sớm có ý nghĩa to lớn là cứu được hàng triệu sinh mạng mỗi năm.
Thành công đầu tiên trong việc tìm kiếm một dấu hiệu sinh học hiện diện ở nhiều loại ung thư thường gặp đã đến vào năm 1965. Người ta phát hiện một kháng nguyên ung thư phôi (carcinoembryonic antigen (CEA)) trong máu bệnh nhân ung thư đại tràng. Đến cuối thập niên 70, nhiều dấu hiệu sinh học ung thư khác lần lượt được xác lập như CA 19-9 trong ung thư đại trực tràng, CA 15-3 trong ung thư vú và CA 125 trong ung thư buồng trứng. Có nhiều dấu hiệu sinh học ung thư khác cũng được tìm thấy nhưng không được tiếp tục đào sâu nghiên cứu vì không chứng tỏ được ưu thế hơn các dấu hiệu sinh học đã xác lập.
Tuy vậy, không có một dấu hiệu sinh học nào kể trên (kể cả CEA) đáp ứng được các yêu cầu đặt ra cho một dấu hiệu sinh học lý tưởng là giúp phát hiện ung thư ở giai đoạn sớm. Có nhiều lý do để giải thích tình trạng này:
§   Hầu hết, mọi người bình thường đều có một lượng nhỏ các dấu hiệu sinh học này trong máu và rất khó để phát hiện sự gia tăng tinh tế nếu có của các dấu hiệu sinh học này khi ung thư mới chớm phát triển.
§   Lượng các dấu hiệu sinh học trong máu chỉ tăng cao hơn bình thường khi ung thư đã phát triển nhiều.
§   Một số bệnh nhân ung thư không có biểu hiện tăng các dấu hiệu sinh học.
§   Ngay cả khi các dấu hiệu sinh học tăng cao hơn bình thường cũng không đủ tính đặc hiệu để chẩn đoán ung thư. Thí dụ như dấu hiệu sinh học CA 125 có thể tăng trong nhiều bệnh lý phụ khoa khác, ngoài ung thư buồng trứng.
Những lý do vừa nêu cũng là cơ sở để cho thấy hiện nay các dấu hiệu sinh học được dùng chủ yếu cho các bệnh nhân ung thư đã được chẩn đoán nhằm đánh giá đáp ứng với điều trị và theo dõi tái phát sau điều trị.
Dấu hiệu sinh học duy nhất được dùng trong tầm soát ung thư hiện nay là kháng nguyên đặc hiệu tuyến tiền liệt (prostate-specific antigen (PSA)). Dấu hiệu sinh học PSA được phát hiện gần như đồng thời với các dấu hiệu sinh học ung thư khác và được sử dụng rộng rãi từ đầu thập niên 1990 nhờ một số ưu điểm đặc biệt. Thứ nhất là PSA chỉ được tạo ra bởi các tế bào tuyến tiền liệt nên sự gia tăng PSA hầu như là do bệnh lý của tuyến tiền liệt. Hơn nữa, PSA thường tăng cao ngay khi ung thư mới chớm phát triển, do vậy có thể chẩn đoán được ung thư tuyến tiền liệt ở giai đoạn sớm, có khả năng chữa khỏi. Tuy nhiên, cũng còn một số vấn đề còn bàn cãi chung quanh xét nghiệm này. Một số người có PSA cao trong máu do các bệnh lý lành tính khác của tuyến tiền liệt. Một số bệnh nhân có PSA cao nhưng bệnh ung thư tuyến tiền liệt của họ lại không cần điều trị. Một số bệnh nhân khác có ung thư tuyến tiền liệt nhưng PSA lại không cao. Hiện vấn đề có nên thử PSA cho tất cả mọi người nam cao tuổi hay không đang còn tiếp tục bàn cãi và chưa có được sự nhất trí chung.
Nhiều dấu hiệu sinh học mới đang được nghiên cứu những năm gần đây có tính chất khác với các dấu hiệu sinh học cổ điển.
V. MỘT SỐ DẤU HIỆU SINH HỌC THÔNG DỤNG
A. Alpha-fetoprotein (AFP)
AFP có ích trong chẩn đoán và điều trị ung thư gan nguyên phát. Người bình thường có AFP thấp hơn 10 ng/mL. AFP tăng cao trong phần lớn bệnh nhân ung thư gan nguyên phát. AFP cũng tăng trong bệnh viêm gan siêu vi nhưng ở mức độ thấp, hiếm khi cao hơn 100 ng/mL.
AFP có giá trị giúp chẩn đoán ung thư gan nguyên phát. Ở người bình thường có khối bướu gan và không có bệnh lý ở gan trước đó, ngưỡng AFP tăng cao hơn 400 ng/mL có giá trị chẩn đoán ung thư gan nguyên phát. Nhưng với bệnh nhân có khối bướu gan trên nền viêm gan mạn, AFP tăng cao hơn 4.000 ng/mL mới có giá trị hướng đến chẩn đoán ung thư gan. Lượng AFP trong máu trở lại bình thường sau khi khối bướu được cắt bỏ hoàn toàn. Lượng AFP tăng cao trở lại sau đó thường là dấu chỉ bệnh ung thư tái phát.
AFP cũng tăng cao trong một số ung thư tinh hoàn và buồng trứng (loại tế bào mầm) và được dùng để theo dõi sau điều trị các ung thư này.
B. Beta-2-microglobulin (B2M)
B2M tăng trong máu trong các bệnh đa u tủy, bạch cầu lymphô mạn và một số lymphôm. Một số tình trạng bệnh lý ngoài ung thư như bệnh thận cũng có thể làm tăng B2M. Giá trị bình thường dưới 2,5 mg/L. B2M có giá trị tiên lượng và giúp đánh giá hiệu quả điều trị các ung thư liên quan.
C. CA 15-3
CA 15-3 được dùng chủ yếu để theo dõi điều trị ung thư vú. CA 15-3 tăng cao trong máu dưới 10% bệnh nhân ung thư vú giai đoạn sớm và khoảng 70% bệnh nhân giai đoạn tiến xa. Lượng CA 15-3 giảm sau điều trị có hiệu quả nhưng có thể tăng tạm thời vài tuần lễ đầu do các tế bào ung thư phóng thích ra khi bị tiêu diệt bởi điều trị.
Giá trị bình thường dưới 30 U/mL, nhưng phụ nữ bình thường có thể có CA 15-3 cao tới 100 U/mL. CA 15-3 có thể tăng cao trong một số ung thư khác và các bệnh lý lành tính ở vú, viêm gan.
D. CA 125
CA 125 là dấu hiệu sinh học tiêu chuẩn dùng để theo dõi trong và sau điều trị ung thư biểu mô buồng trứng. Giá trị bình thường thấp hơn 35 U/mL. Hơn 90% bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn tiến xa có tăng CA 125 và giá trị này thay đổi theo hiệu quả của điều trị.
Gần 50% bệnh nhân ung thư buồng trứng giai đoạn khu trú có tăng CA 125. CA 125 không giúp ích nhiều trong tầm soát ung thư buồng trứng vì tỉ lệ bỏ sót cao, và nhiều bệnh lý cũng làm tăng CA 125 như tử cung hóa sợi, lạc nội mạc tử cung. CA 125 cũng có thể tăng cao trong các ung thư khác như phổi, tụy, vú, đại tràng.v.v… Vì tương đối hiếm gặp so với các ung thư khác nên sự gia tăng CA 125 trong máu có thể liên quan đến các ung thư khác hơn là chính ung thư buồng trứng.
E. CA 19-9
CA 19-9 thường được dùng trong theo dõi điều trị ung thư tụy. Giá trị bình thường dưới 37 U/mL , tăng CA 19-9 liên quan đến tình trạng tiến xa của bệnh.
CA 19-9 còn tăng trong các ung thư tiêu hóa khác, như ung thư đại tràng, bao tử, đường mật và một số bệnh lý không ung thư như bệnh tuyến giáp, viêm tụy.
F. Carcinoembryonic antigen (CEA)
CEA không được dùng để tầm soát hoặc chẩn đoán, nhưng có giá trị dự đoán tiên lượng ung thư đại trực tràng, giá trị bình thường dưới 3 ng/mL. Sự tăng CEA liên quan đến mức độ tiến xa của bệnh.
CEA là dấu hiệu sinh học tiêu chuẩn dùng trong theo dõi trong và sau điều trị ung thư đại trực tràng.
CEA có thể tăng cao và có thể dùng để theo dõi đánh giá đáp ứng với điều trị như trong ung thư phổi, ung thư vú. CEA cũng có thể tăng trong một số ung thư khác như tuyến giáp, tụy, gan, bao tử, tiền liệt tuyến, buồng trứng, bọng đái. Một số bệnh lý ngoài ung thư và người hút thuốc lá cũng có thể có CEA cao.
G. Thụ thể nội tiết
Thụ thể nội tiết được khảo sát từ mô ung thư vú, gồm hai loại thụ thể với estrogen và thụ thể với progesterone. Các bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính thường có tiên lượng tốt hơn do ung thư tiến triển chậm. Các ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính có thể điều trị bằng phương pháp nội tiết như tamoxyfen hoặc aromatase inhibitors.
K. HER2 (hay HER2/neu, erbB-2, EGFR2)
HER2 là một prôtêin kích thích tế bào ung thư vú tăng trưởng. Thụ thể với HER2 cũng được khảo sát từ mô ung thư vú và dương tính trong khoảng 20% bệnh nhân. Các ung thư có HER2 dương tính thường tiến triển và lan tràn nhanh hơn. HER2 cũng tăng trong nhiều ung thư khác ngoài ung thư vú.
Bệnh nhân có HER2 dương tính có thể có đáp ứng với một số điều trị đặc biệt như trastuzumab (Herceptin®), lapatinib (Tykerb®) là các thuốc tác dụng đặc hiệu trên thụ thể HER2 của tế bào ung thư.
L. Human chorionic gonadotropin (HCG)
HCG (còn gọi là beta-HCG) tăng cao trong máu trong một số loại ung thư tinh hoàn, buồng trứng và ung thư tế bào đệm nuôi. HCG cũng có thể tăng cao trong bướu tế bào mầm trung thất. Định lượng HCG có giá trị giúp chẩn đoán và theo dõi điều trị cũng như sự tái phát của các bệnh lý trên.
Sự tăng cao HCG cũng gợi hướng chẩn đoán ung thư trong một vài tình huống như phụ nữ có tử cung lớn kéo dài sau sanh kèm theo sự tăng cao HCG trong máu hướng đến chẩn đoán ung thư tế bào đệm nuôi. Tương tự như vậy ở nam, HCG tăng cao kèm theo một khối bướu ở tinh hoàn hoặc ở trung thất hướng đến chẩn đoán ung thư tế bào mầm.
M. Neuron-specific enolase (NSE)
NSE, cũng như chromogranin A là các dấu hiệu sinh học của các bướu thần kinh nội tiết như carcinôm tế bào nhỏ ở phổi, bướu nguyên bào thần kinh, bướu carcinoid. NSE không có giá trị tầm soát mà thường được dùng trong theo dõi điều trị ung thư phổi tế bào nhỏ và bướu nguyên bào thần kinh. NSE có thể tăng cao trong một số ung thư không thuộc hệ thần kinh nội tiết. Ngưỡng tăng có ý nghĩa bệnh lý của NSE thường là cao hơn 9ug/mL.
N. Prostate-specific antigen (PSA)
PSA là dấu hiệu sinh học của ung thư tiền liệt tuyến. đây là dấu hiệu sinh học duy nhất có ý nghĩa sử dụng để tầm soát một trong những ung thư thường gặp, tuy vẫn còn nhiều vấn đề còn bàn cãi. PSA là một protêin được tạo ra bởi các tế bào tuyến tiền liệt.
Sự gia tăng PSA trong máu thường gặp trong ung thư tuyến tiền liệt và một số tình trạng bệnh lý khác như phì đại tuyến tiền liệt. PSA cũng có khuynh hướng tăng theo tuổi, tình trạng viêm nhiễm tuyến tiền liệt và ngay cả 1 hoặc 2 ngày sau phóng tinh.
Giá trị bình thường của PSA thường thấp hơn 4 ng/mL. Giá trị tăng cao hơn 10 ng/mL có ý nghĩa chẩn đoán ung thư tiền liệt tuyến. Khoảng giữa 4 đến 10 ng/mL được gọi là khu vực giáp ranh và người có trị số PSA ở khoảng này có khả năng 25% mắc ung thư tuyến tiền liệt. Tuy nhiên, sự định giá trị ngưỡng ở mức 4ng/ml cũng không có giá trị tuyệt đối vì nhiều bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt không có PSA cao và ngược lại không hẳn tất cả mọi trường hợp có PSA cao trên ngưỡng đều là ung thư tuyến tiền liệt. Tốc  độ tăng PSA được đánh giá bằng định lượng PSA liên tiếp ít nhất 3 lần trong vòng 18 tháng có ý nghĩa chẩn đoán cao hơn.
Trong tình huống PSA tăng ở khu vực giáp ranh (từ 4 đến 10 ng/mL), xét nghiệm định lượng PSA tự do (PSA trong máu có hai dạng: dạng kết hợp với protein và dạng tự do). Tỉ lệ PSA tự do trên PSA toàn bộ càng tăng thì càng ít có khả năng ung thư. Ung thư tuyến tiền liệt hầu như ít xảy ra khi tỉ lệ PSA tự do/PSA toàn bộ cao hơn 25% . Khi tỉ lệ này thấp hơn 10%, ung thư tuyến tiền liệt có nhiều khả năng xảy ra và bệnh nhân cần được sinh thiết để xác định chẩn đoán.
Xét nghiệm PSA rất có giá trị trong việc theo dõi bệnh nhân. PSA âm tính hóa hoàn toàn sau phẫu thuật triệt để ung thư tiền liệt tuyến giai đoạn khu trú. Lượng PSA trong máu cũng giảm thấp sau khi xạ trị. PSA tăng trở lại báo hiệu bệnh có khả năng tái phát hoặc di căn. PSA còn có ý nghĩa giúp đánh giá đáp ứng điều trị bằng các phương pháp toàn thân (nội tiết, hóa trị) trong giai đoạn tiến xa.
O. Prostate-specific membrane antigen (PSMA)
PSMA là dấu hiệu sinh học có ở tất cả các tế bào tuyến tiền liệt, tăng theo tuổi tác và trong bệnh ung thư tuyến tiền liệt. PSMA có độ nhạy cao nhưng không chứng tỏ ưu thế hơn PSA. Nhiều nghiên cứu đang tiến hành nhằm xác lập vai trò của PSMA trong chẩn đoán và theo dõi điều trị. Hiện PSMA thường được dùng trong xạ hình toàn thân để đánh giá giai đoạn và đang được nghiên cứu áp dụng trong điều trị miễn dịch ung thư tuyến tiền liệt.
P. Thyroglobulin
Thyroglobulin là một protein được tạo ra bởi tuyến giáp. Lượng thyroglobulin bình thường thay đổi theo tuổi và giới. Thyroglobulin tăng cao trong một số bệnh tuyến giáp bao gồm cả ung thư.
Lượng thyroglobulin trong máu trở về mức không phát hiện được sau điều trị triệt để ung thư tuyến giáp. Lượng thyroglobulin tăng trở lại có ý nghĩa bệnh tái phát. Trong giai đoạn tiến xa, thyroglobulin có giá trị giúp theo dõi đánh giá đáp ứng với điều trị ung thư tuyến giáp.
Một số bệnh nhân có phản ứng miễn dịch chống lại thyroglobulin làm ảnh hưởng đến xét nghiệm, do vậy người ta thường định lượng đồng thời thêm kháng thể kháng thyroglobulin.
 
VI. CÁC NGHIÊN CỨU DẤU HIỆU SINH HỌC UNG THƯ MỚI
Các dấu hiệu sinh học ung thư khảo sát riêng rẽ ít có ý nghĩa trong chẩn đoán và theo dõi điều trị bệnh ung thư. Các nghiên cứu mới mở ra theo hướng nhìn toàn diện tổng thể các biến đổi của cơ thể và khối bướu ảnh hưởng như thế nào đến diễn tiến bệnh ung thư và các áp dụng vào tầm soát, chẩn đoán và điều trị…
A. Bộ gen (genomics)
Các nhà nghiên cứu đặt chú ý vào các thay đổi của bộ gen và quá trình diễn tiến bệnh ung thư. Với các công nghệ và kỹ thuật sinh học phân tử mới, người ta đã có thể xác định các biến đổi gen của từng ung thư cụ thể, qua đó tiên liệu được độ ác tính, khả năng đáp ứng với các phương pháp điều trị đặc biệt.
B. Bộ protein (proteomics)
Tương tự các nhà nghiên cứu khảo sát toàn thể một số protein (sản phẩm của các gen) có liên quan đến quá trình tiến triển của bệnh ung thư cụ thể và áp dụng vào trong chẩn đoán và điều trị.
 
Tóm lại, dù có tiến bộ và hiện đại đến đâu, các dấu hiệu sinh học ung thư hiện được dùng với ý nghĩa như một xét nghiệm hỗ trợ lâm sàng. Càng nhiều dấu hiệu sinh học ung thư được phát hiện và nghiên cứu áp dụng, càng có nhiều vấn đề đặt ra liên quan đến một loạt các khía cạnh như: chỉ định, tốn phí, ảnh hưởng xấu đến người bệnh khi bị lạm dụng các xét nghiệm này…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét