Trang

Lương y Thích Tuệ Tâm, "sát thủ thầm lặng" của bệnh cao huyết áp

08:52 AM, 06-10-2014

(ĐSPL) - Với bài thuốc nam của ông, người bệnh có thể tự điều trị căn bệnh cao huyết áp bằng những loại rau củ quả rất đơn giản. Bài thuốc không những mang lại hiệu quả rất cao mà còn rất dễ bào chế, giá cả lại rất rẻ. Ngoài chữa trị khỏi bệnh cao huyết áp, bài thuốc đặc biệt này còn chữa được những  trường hợp mỡ trong máu cao, xơ vữa động mạch, giảm cholesterol xấu, đái tháo đường...
Đó là bài thuốc nam do lương y Thích Tuệ Tâm, giám đốc điều hành Trung tâm kế thừa và ứng dụng y học cổ truyền Tuệ Tĩnh Đường Liên Hoa (số 3 Lê Quý Đôn, TP Huế), dày công sưu tầm, bào chế. Hơn 30 năm nay, lương y đã không ngần ngại chia sẻ bài thuốc đặc biệt của mình cho hàng ngàn người thoát khỏi căn bệnh được mệnh danh "sát thủ thầm lặng" này.
Lương y Thích Tuệ Tâm
Vào chùa để được học nghề y cứu người
Theo những lời rỉ tai của người dân xứ Huế chúng tôi đến tìm gặp vị lương y sáng chế ra bài thuốc đặc biệt này. Từ sáng sớm, hàng trăm bệnh nhân đã sắp hàng để chờ đến lượt mình thăm khám. Phải đến xế chiều khi bệnh nhân ra về hết chúng tôi mới có thể trò chuyện cùng lương y Thích Tuệ Tâm. Rót nước mời khách ông kể cơ duyên đến với nghề y và quá trình mình bào chế ra bài thuốc quý báu này.
Được biết, lương y Thích Tuệ Tâm sinh ra trong một gia đình có truyền thống y học. Gia đình có 6 anh chị em thì có 4 người theo nghề y. "Từ nhỏ tôi luôn muốn trở thành người thầy thuốc giỏi để chữa bệnh cứu nhiều bệnh nhân nghèo thế nhưng khi lớn lên cha không đồng ý. Ông bảo nghề y chỉ dừng lại đây và sẽ không truyền lại cho ai nữa. Bởi ông sợ con cháu mình sẽ lợi dụng nghề y để tư lợi cho bản thân", thầy Tâm tâm sự.
Đến năm 15 tuổi thầy quy y cửa phật, lúc này thân sinh của thầy Tâm mới hiểu được tâm nguyện của con nên mới đồng ý truyền nghề cho. Ngoài những kiến thức mà thầy Thích Tuệ Tâm được cha mình truyền dạy, ông còn theo học lớp tư gia để học hỏi kinh nghiệm từ các bậc thầy nổi tiếng. "Lúc đó, ngoài nền tảng mà cha tôi truyền lại tôi còn tìm tòi thêm và tự học những kiến thức mới, bài thuốc mới trong y học. Điều tôi cảm thấy day dứt nhất là những bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo không có tiền để chữa trị bệnh họ phải chịu đựng đau dớn về thể xác và tinh thần. Từ đó, tôi bắt đầu tìm những bài thuốc nam đơn giản, hiệu quả, hợp túi tiền để chữa bệnh cho dân nghèo", thầy Thích Tuệ Tâm tâm sự.
Đến năm 1982, sư thầy Thích Tuệ Tâm đã đứng ra mở lớp châm cứu tại chùa huyền không (xã Hương Hồ, huyện Hương Trà). Lớp châm cứu được mở ra tâm nguyện thiện nguyện giúp đỡ những người nghèo bước đầu được thực hiện. Cũng trong năm đó, tổ chẩn trị y học cổ truyền gồm 7 thành viên do sư thầy Thích Tuệ Tâm đứng đầu được ra mắt. Đã hơn 30 năm nay, lương y Thích Tuệ Tâm đã đứng ra mở lớp đào tạo, bồi dường kiến thức đông y hoàn toàn miễn phí cho rất nhiều học viên. Hiện nay đã là khóa thứ 14, mỗi khóa học trong vòng 3 năm, mỗi lớp trung bình 60 người. Ngày khám bệnh miễn phí, tối đến lại đừng lớp để truyền thụ kiến thức cho các học viên. Tham gia lớp học không chỉ là những người đang theo nghành y ở các trường chính quy mà ngay cả những người không theo học y cũng có thể tham gia. Ông cho biết, chỉ cần người đó có tâm huyết và xác định đúng mục đích chữa bệnh là để cứu người thì ông có thể chỉ cho họ cách chữa bệnh. "Một người thầy thuốc giỏi thôi chưa đủ, người đó còn cần phải có cái tâm khám bệnh từ thiện. Cái quan trọng nhất của một người thầy thuốc đó là đạo đức. Tôi truyền thụ kiến thức để cứu người, giúp đỡ những người nghèo", lương y Tâm trải lòng.
Bài thuốc đơn giản trị bệnh cao huyết áp hiệu quả
Theo lương y Tâm, bệnh cao huyết áp là một chứng bệnh về tim mạch của người cao tuổi, nhất là hiện nay chế độ ăn uống đầy đủ, số người béo phì xuất hiện nhiều. Bệnh này là một trong những nguyên nhân dẫn đến đột quỵ và để lại nhiều di chứng nặng nề. Nếu không chữa trị kịp thời có thể gây ra các biến chứng như là tai biến mạch máu não, suy tim, suy thận…
Sư thầy đang chữa trị cho bệnh nhân
Bài thuốc mà thầy bào chế được có nguồn gốc từ bài thuốc gia truyền của dòng họ Huyền. Vì trong gia tộc này không còn ai theo nghề thầy thuốc nên họ đã tin tưởng giao cho ông bài thuốc này. Người trưởng tộc dòng họ Huyền mong muốn có thể phổ biến bài thuốc này đến cho tất cả những người mắc bệnh. Để bài thuốc thêm tính hiệu nghiệm, thầy Tâm đã nghiên cứu và bổ sung thêm một số vị thuốc khác. Khi nghiên cứu thành phần của bài thuốc này, thầy Tâm nhận thấy các thành phần trong bài thuốc này cũng có tác dụng hạ huyết áp, tốt cho tim mạch, điều trị cholesteron trong máu, gan nhiễm mỡ.
Hơn 10 năm nghiên cứu và áp dụng trên thực tế, sư thầy mới công bố bài thuốc này rộng rãi ra bên ngoài. Bài thuốc được bào chế từ những loại thảo dược dân giã, dễ bào chế mà giá cả lại rẻ. Bài thuốc này bao gồm năm vị: Rau cần tây (một cây- nếu không có rau cần tây thì có thể thay bằng củ năng); cà rốt (một củ); cà chua chín vừa (một quả); củ hành (ba quả) và củ tỏi (7 tép).
Những người bệnh nhân dùng bài thuốc này, huyết áp của người bệnh giảm xuống và ổn định trong một thời gian dài. "Với bệnh cao huyết áp, việc khó chữa trị gặp rất nhiều khó khăn và tốn nhiều tiền của nhưng đối với thầy thì việc chữa trị rất đơn giản. Người bệnh chỉ cần sử dụng thuốc trong thời gian từ 10 đến 15 ngày sẽ có hiệu quả rõ rệt, huyết áp giảm và sẽ ổn định trong thời gian dài. Với những người mắc bệnh tim mạch thì nên kéo dài thời gian uống thuốc vì bài thuốc này cũng rất tốt cho tim mạch", thầy cho biết.
Trong quá trình điều trị bệnh cần thường xuyên theo dõi huyết áp của người bệnh. Cho người bệnh uống thuốc đến khi nào huyết áp trở về mức bình thường thì ngưng. Bởi nếu tiếp tục uống kết quả sẽ ngược lại huyết áp người bệnh sẽ tụt xuống thấp rất nguy hiểm. Trường hợp huyết áp tăng trở lại thì người bệnh chỉ cần uống thuốc vài lần thì huyết áp sẽ ổn định trở lại. Sư thầy cũng khuyến cáo, những người mắc bệnh cao huyết áp khi đi xa thì cũng nên chuẩn bị thuốc tây để phòng những lúc huyết áp tăng cao.
Đặc biệt người bệnh cần phải chú ý đến việc ăn uống, kiêng cữ bia rượu, mỡ động vật, chất cay nóng. Thường xuyên vận động, giữ tâm lý thoải mái vui tươi. Người cao huyết áp cũng phải chú ý khi thức dậy vào buổi sáng cần vận động nhẹ nhàng trong nhà trước rồi mới đi ra ngoài. Nhất là vào những ngày trời lạnh không nên đi ra ngoài vào buổi sáng mà chỉ nên vận động trong nhà để tránh bị trúng phong.
Bài thuốc của lương y Tâm được hội đông y trung ương đánh giá cao trong hội thảo báo cáo về các bài thuốc của các vị sư và các bài thuốc dân tộc. Những người mới mắc bệnh này có thể tự làm thuốc theo cách hướng dẫn trên hoặc gọi điện trực tiếp nói rõ triệu chứng, sư thầy sẽ hướng dẫn cụ thể liều lượng sử dụng phù hợp với tình trạng bệnh.
Riêng chi phí thuốc thang, sư thầy cho biết tuỳ thuộc theo đối tượng mà trung tâm có chế đội miễn giảm khác nhau. Đối với bệnh nhân nghèo, gia cảnh khó khăn không những được cấp phát thuốc mà còn được hỗ trợ thêm chỗ ăn ở miễn phí. Ngoài ra mỗi năm tập thể cán bộ tại Trung tâm đều thường xuyên tổ chức những đợt khám chữa bệnh từ thiện lưu động về vùng sâu vùng xa.
Vừa tu hành, vừa chữa bệnh giúp bệnh nhân nghèo người ta biết đến cái tên Thích Tuệ Tâm là một thầy thuốc hơn là một nhà sư. Hy vọng lương y Tâm sẽ bào chế ra được nhiều bài thuốc quý để cứu nhiều bệnh nhân nghèo hơn nữa.
LINH MINH - HÀ HẰNG

7 công dụng bất ngờ từ nha đam

 

(VTC News) –  Giảm cân, chữa bệnh tiểu đường, giảm lượng mỡ trong máu … là những lợi ích bất ngờ từ cây nha đam (lô hội).
 
1.     Giảm lượng mỡ trong máu

Theo nghiên cứu của Viện Y tế quốc gia (NIH) nếu uống 10-20 ml nước ép lô hội hằng ngày trong vòng 12 tuần có thể giảm lượng cholesterol trong máu xuống 15%, giảm lượng Lipoprotein xấu tới 18 % và chất béo trung tính (triglycerides)  giảm 25-30%.

2.    Chữa bỏng

Thoa kem lô hội nhẹ nhàng lên vùng da bị bỏng có thể giúp bạn chữa lành vết thương. Theo một nghiên cứu vào năm 2009, 30 bệnh nhân bị bỏng cấp độ 2 khi sử dụng kem lô hội, vết thương đã nhanh chóng lành lại trong vòng 16 ngày.

7 công dụng bất ngờ từ nha đam
Lô hội có tác dụng chữa bỏng hiệu quả.
3.    Làm mượt tóc

Không chỉ cực kỳ hữu ích cho làn da, lô hội còn là một sản phẩm quý giá từ thiên nhiên không thể thiếu trong quá trình chăm sóc tóc của bạn.

Trong cây Lô hội chứa tinh chất dưỡng ẩm, rất tốt cho tóc. Sử dụng gel lô hội thoa lên tóc khi gội đầu, sau đó làm sạch bằng nước, bạn sẽ có được mái tóc mượt mà như ý.


4.    Trị mụn, làm mờ sẹo và chữa cháy nắng

Theo một số nghiên cứu chỉ ra rằng, nhờ đặc tính kháng khuẩn, lô hội có thể giúp bạn trị mụn, nhanh chóng làm mờ vết thâm, mờ sẹo, giữ ẩm cho làn da và chống nhờn.

Loài cây này cũng được xem là liều thuốc đơn giản và hiệu quả khi làn da của bạn bị cháy nắng. Trong trường hợp này, Lô hội có tác dụng làm mát da, giúp phục hồi vùng da bị tổn thương do ánh nắng mặt trời.


7 công dụng bất ngờ từ nha đam
Lô hội cực kỳ hiệu quả trong việc trị mụn, làm mờ vết thâm và chữa cháy nắng.
5.     Giảm đau và chữa lành vết thương

Theo một cuộc khảo sát mới đây, cây lô hội đang được dùng tại các bệnh viện vì tác dụng giảm đau. Loài thực vật quý này nằm trong danh sách các trị liệu bổ sung có tác dụng đẩy nhanh tiến độ chữa lành vết thương và giảm sưng cho bệnh nhân sau khi phẫu thuật.

Có thể dùng cây lô hội đắp trực tiếp lên vết thương hoặc chỗ bị sưng để giảm thời gian chữa bệnh, giảm thiểu các cơn đau và nhanh liền sẹo.


6.     Chữa bệnh tiểu đường

Theo nghiên cứu của Sở Y tế quốc gia (NIH), uống nước ép lô hội có thể giúp bạn giảm lượng đường trong máu đối với những bệnh nhân mắc chứng tiểu đường.

7 công dụng bất ngờ từ nha đam
Lô hội có thể chữa bệnh tiểu đường.
7.     Giảm cân

Theo Dailymail, lô hội là một trong những thực vật chứa nhiều vitamin quý như Vitamin A, C, E, B1, B2, B3, B6. Nó cũng là một trong số ít những loài thực vật có chứa Vitamin B12, đây là loại sinh tố quý hiếm, cực kỳ tốt cho bộ não và các hệ thần kinh chức năng.


Bên cạnh tác dụng chữa bệnh, lô hội được chứng minh có thể giúp giảm cân. Sử dụng nước ép lô hội giúp tăng cường trao đổi chất, tiêu thụ năng lượng, đốt cháy chất béo và carbohydrate.

Lô hội còn là loại nước nhuận tràng, giúp thức ăn ra khỏi đại tràng nhanh hơn, khiến cơ thể ít có cơ hội hấp thu được chất béo.


Các nhà khoa học còn khẳng định, việc sử dụng lô hội đều đặn cũng có tác dụng tương tự như việc tập thể dục hàng ngày. Tuy nhiên, lô hội cũng không thể giúp giảm cân thần tốc, vì thế bạn cần kiên trì kết hợp với chế độ ăn uống, tập luyện để đạt được kết quả mong muốn.
 
Hà Trần

Tác hại khôn lường từ mì chính

Ngày 26 Tháng 2, 2015 | 10:09 PM

GiadinhNet- Khá nhiều dịch vụ ăn uống sử dụng mì chính đánh lừa miệng của khách hàng. Trong khi đó, tác hại từ việc sử dụng mì chính "quá liều" rất khó lường và tổn thương não bộ ghê ghớm.

Mì chính (bột ngọt) giúp thức ăn trở nên ngọt ngào, hấp dẫn hơn nhưng bản thân nó không hề có giá trị dinh dưỡng, thậm chí còn gây hại nếu lạm dụng quá mức.

Theo thạc sĩ Lưu Thủ Nghị, Đại học Nông lâm TP HCM, mì chính là muối của axit glutamic, rất có tác dụng trong việc truyền tín hiệu của thần kinh. Dùng nhiều mì chính sẽ gây rối loạn hoạt động của não, mất trí nhớ, làm tiêu hao B6, dễ gây những cơn động kinh.

Chưa kể trên thị trường có khá nhiều mì chính giá, nếu chẳng may dùng phải tác hại sẽ khó lường- Ảnh minh họa

PGS. TS Nguyễn Duy Thịnh, Viện Công nghệ sinh học và thực phẩm (Đại học Bách khoa Hà Nội) cũng cho rằng, dùng quá nhiều mì chính sẽ gây rối loạn hoạt động não, dẫn đến suy thoái não. Chưa kể gan và thận do phải làm việc cật lực để thải hồi độc chất acid amin có trong mì chính, dẫn đến bị suy yếu và gây nhiều rối loạn.

Ăn quá nhiều mì chính còn gây ra các triệu chứng như nóng ran sau gáy, choáng váng, nhức đầu, khô cổ, nhiều đờm, khó chịu... Các cơn hen có thể xuất hiện khoảng 12 giờ sau khi dùng mì chính. Nhiều người sau 30 phút sử dụng quá nhiều mì chính sẽ gây nên cơn trầm cảm với nhiều biểu hiện khác nhau như căng thẳng, hoa mắt, nhức đầu, buồn nôn, đau bụng, ủ rũ, những cơn bốc nóng sau gáy bất thường…

Ngoài ra, những người có thể trạng nhạy cảm hay bị nhức đầu, đỏ mặt, đau gáy, nôn mửa; người mắc bệnh hen suyễn, cao huyết áp, thận, tim và trẻ em không nên sử dụng mì chính vì cơ thể sẽ có những diễn tiến xấu. Với những người mắc bệnh lý nói trên sẽ khiến bệnh nặng hơn. Còn với trẻ em ăn mì chính sẽ làm thay đổi khẩu vị và gây nghiện mì chính khi không có mì chính, trẻ sẽ không ăn vô tình gây độc cho não của trẻ.

Ngoài ra với các món chua, món ngọt không nên cho mì chính sẽ làm mất độ chua, độ ngọt đúng vị của món ăn. Cũng không nên dùng mì chính với món trứng vì trong trứng có nhiều bột và khi kết hợp với muối natri clorua rồi đun nóng sẽ tạo ra thứ mì chính tinh khiết, giúp trứng có hương vị thơm ngon. Do đó, cho mỳ chính vào trứng sẽ gây nên tình trạng thừa mỳ chính và gây hại cho sức khỏe.

Kỳ An

 

Ngày 17 Tháng 5, 2014 | 05:25 PM

Rước họa vì dùng mì chính sai cách

Rước họa vì dùng mì chính sai cách

GiadinhNet- Thực tế từ cuộc điều tra bỏ túi của phóng viên phần lớn người tiêu dùng vẫn dùng mì chính sai cách. Trong khi đó, hậu quả từ việc dùng sai này rất nghiêm trọng dễ gây nên các chứng bệnh gây động kinh, mất trí nhớ, trầm cảm, tính khí thất thường.

Không có giá trị dinh dưỡng, gây hại là nhiều

Theo bác sĩ Nguyễn Thị Kim Hưng, Giám đốc Trung tâm Dinh dưỡng TP HCM, mì chính tạo ra "ảo giác" có vị đặc biệt của thịt và nấm, làm hương vị các thức ăn trở nên ngọt và hấp dẫn hơn. Bản thân nó không hề có giá trị dinh dưỡng, thậm chí còn gây hại nếu bị lạm dụng.
 
Rước họa vì dùng mì chính sai cách 1

Một trường hợp ngộ độc mì chính phải vào viện cấp cứu

PGS.TS Phạm Công Thành, trưởng bộ môn Công nghệ thực phẩm và Công nghệ sau thu hoạch, trường ĐH Bách Khoa Hà Nội cũng cho rằng, mì chính hiện nay được sản xuất theo phương pháp sinh học tổng hợp với thành phần là các chất điều vị khác nhau. Trong đó có muối của axit glutamic, một chất có vai trò quan trọng trong việc truyền tín hiệu của thần kinh. Nếu dùng quá nhiều, lượng mì chính dư thừa sẽ làm rối loạn hoạt động của não, gây mất trí nhớ, đồng thời làm tiêu hao B6, dễ gây những cơn động kinh. Nó còn hủy diệt tất cả các thụ thể, nghĩa là những điểm tiếp giáp của dây thần kinh ở não.

Việc lạm dụng mì chính còn gây ra các triệu chứng như nhức đầu, khô cổ, nhiều đờm, khó chịu... Các cơn hen có thể xuất hiện khoảng 12 giờ sau khi dùng mì chính. Một số người sau 30 phút sử dụng gia vị này đã có cơn trầm cảm với biểu hiện ban đầu là căng thẳng, hoa mắt, nhức đầu, buồn nôn, đau bụng. Khoảng 2 tuần sau, bệnh nhân sẽ có những đợt trầm cảm ngắn, trở nên ủ rũ, tính khí thất thường.

Các chuyên gia cũng khuyến cáo những người không nên dùng mì chính là người có thể trạng nhạy cảm (như hay bị nhức đầu, đỏ mặt, đau gáy, nôn mửa... ).

Nếu dùng, các triệu chứng trên sẽ xảy ra nhanh chóng và nhiều hơn. Người mắc bệnh cao huyết áp, thận hoặc tim. Việc cho mì chính vào khẩu phần ăn của trẻ sẽ làm thay đổi khẩu vị và gây nghiện mì chính (khi không có mì chính, trẻ sẽ không ăn).

Tránh độc chỉ có cách dùng đúng

Để không bị nhiễm độc khi dùng mì chính, người tiêu dùng tuyệt đối không thả mì chính ở nhiệt độ cao, khi nấu chín thức ăn hãy bắc ra khỏi bếp mới cho mì chính. Nhiệt độ thích hợp để hòa tan mì chính là khoảng 70 – 90 độ C.

Không cho trực tiếp vào thực phẩm nguội vì mì chính hòa tan kém ở nhiệt độ thấp. Cần hòa tan mì chính với nước ấm trước khi trộn vào thức ăn nguội để tăng vị ngon cho món ăn; Không nên dùng mì chính vào các món ăn chua có giấm: Mì chính không dễ hòa tan trong môi trường axit nên việc thêm mì chính vào các món nộm, gỏi chua ngọt là sai lầm.

Tuyệt đối không nên thêm bột ngọt vào thức ăn có vị ngọt tự nhiên như cà chua, tôm… vì sẽ làm mất hương vị ngọt, độ ngọt của món ăn và gây vị khó chịu; Không nên dùng với trứng vì trứng có nhiều bột và khi kết hợp với muối natri clorua rồi đun nóng sẽ tạo ra thứ bột ngọt tinh khiết, giúp trứng có hương vị thơm ngon. Cho mì chính vào trứng là thừa và còn không tốt cho sức khỏe.

Các món ăn từ thịt lợn không cần thêm mì chính vì nó có chứa acid glutamic, khi kết hợp thêm với muối, gặp nhiệt độ cao tự nhiên sẽ sản xuất ra các thành phần chính của mì chính. Vì thế, khi nấu các món ăn với thịt, không cần thêm mì chính. Các món ăn như trứng, nấm, hải sản, các chế phẩm từ cơm… cũng đều không cần tới mì chính.
Kỳ Anh
 
 GiadinhNet - Chiều 29/1/2015, Đội Cảnh sát kinh tế Công an TP Thanh Hóa đã phá chuyên án bắt quả tang một cơ sở sản xuất mì chính, hạt nêm giả với số lượng lớn tại số nhà 6/85 Đinh Lễ, Phường Lam Sơn, do Nguyễn Thị Cẩm Hường, sinh năm 1979, ở phường Đông Hương, TP Thanh Hóa làm chủ...

Lực lượng chức năng đã thu giữ 85 bao tải mỳ chính nhãn hiệu Trung Quốc có tổng trọng lượng 1.125 kg; 1.014 bao mỳ chính đã đóng gói thành phẩm nhãn hiệu Ajinomoto, Miwon, Anone giả có trọng lượng từ 100gam đến 1kg; 21 bao tải hạt nêm nguyên liệu nhãn hiệu Kooker (loại 10kg/bao) hơn 200 túi hạt nêm đóng gói nhãn hiệu Knorr, Aji-Ngon, Maggi, Chinsu, trong lượng từ 200 đến 1kg. 6,5kg vỏ bao bì của các sản phẩm trên với nhiều chủng loại khác nhau và toàn bộ các loại máy móc sử dụng để san chiết, đóng gói bao bì

Các cơ quan chức năng đang lập biên bản, niêm phong số mỳ chính, hạt nêm giả của Nguyễn Thị Cẩm Hường
Các cơ quan chức năng đang lập biên bản, niêm phong số mỳ chính, hạt nêm giả của Nguyễn Thị Cẩm Hường

 

Theo lời khai của Nguyễn Thị Cẩm Hường, hành vi làm giả mì chính, hạt nêm mang nhãn hiệu của các công ty lớn có uy tín chất lượng đã được gần 1 năm nay. Để sản xuất mì chính giả, Hường cho nhập nguyên liệu cửa khẩu Trung Quốc về, rồi thuê lao động đóng gói giả các nhãn hiệu sau đó đưa đến phân phối cho các cửa hàng, đại lý bán hàng tạp hóa các vùng nông thôn, miền núi trên địa bàn toàn tỉnh để bán kiếm lời. Trong đó, việc sang chiết, đóng gói sản phẩm do Nguyễn thị Sinh, sinh năm 1987, ở Phường Lam Sơn phụ trách, còn Nguyễn Thị Cẩm Hường phụ trách khâu vận chuyển, phân phối sản phẩm.

Hiện Công an TP Thanh Hóa đang tạm giữ hành sự đối với 2 đối tượng Hường và Sinh để điều tra hành vi sản xuất hàng giả. Đồng thời đơn vị đã gửi các mẫu hàng giả đi giám định để xác định mức độ nguy hại đến sức khỏe người tiêu dùng.

Ngọc Hưng

 

"Mỳ chính Trung Quốc giá 30.000 đồng/kg, em cần bao nhiêu? Nếu đồng ý mua thì đặt tiền trước, 15 phút sau sẽ có hàng ngay cho em, kể cả em lấy hàng chục tấn hàng bọn chị cũng đáp ứng được".

Đó là lời chào mời của một tiểu thương bán hàng tại thị trấn Thổ Tang (Vĩnh Tường, Vĩnh Phúc), nơi được coi là "thủ phủ" của hàng rởm, hàng nhái, hàng kém chất lượng... Chẳng khó để thấy cảnh mì chính Trung Quốc được bày bán la liệt, giá rẻ chỉ bằng một nửa so với hàng công ty sản xuất.

Mua bao nhiêu cũng có

Trong vai người đi buôn muốn tìm mối lấy hàng số lượng lớn, tại đại lý Hòa N., cách chợ Thổ Tang hơn 500m, một người đàn ông tầm 40 tuổi nói với người viết: "Ở đây có đủ các loại nước uống, các loại gia vị như mì chính, bột canh, nước mắm... toàn hàng công ty nhé. Giá cả thì nhà anh là đại lý lớn, bao giờ giá để buôn cũng thấp".

Khi hỏi về mì chính, người đàn ông này nói: "Mì chính hàng công ty giá trên 1,1 triệu đồng một bao 25kg, chia ra khoảng 45.000 đồng/kg". Khi PV hỏi về "mỳ chính loại 2" liền nhận được câu trả lời: "Loại 2, mỳ chính Tàu chứ gì? Một bao 25 kg, không có túi nhỏ hơn".
 
Mì chính Tàu: Bao nhiêu cũng có, nhãn hiệu nào cũng chiều 1
Mỳ chính Tàu giá 30.000 đồng/kg không nhãn mác được bày bán tràn lan ở Thổ Tang, bên cạnh là hàng chính hãng

Thắc mắc và ngỏ ý muốn xem hàng trước, người phụ nữ tầm 35 tuổi ngồi kế bên lên tiếng: "Ở đây chỉ có hàng công ty. Loại hàng em yêu cầu thì không có sẵn nhưng giá 30.000 đồng/kg, em chỉ cần thông báo số lượng. Nếu đồng ý mua thì đặt trước 70-80% lượng tiền hàng, 15 phút sau sẽ có hàng ngay cho em, kể cả em lấy hàng chục tấn hàng bọn chị cũng đáp ứng được".

"Em yên tâm đi, bọn chị làm ăn lớn, toàn đổ cho các mối đánh hàng đi tỉnh hay mối nhập hàng cho quán ăn, nhà hàng. Mỗi lần họ lấy vài tấn chứ có ít đâu. Loại mỳ chính Tàu này, chất lượng chỉ kém hàng công ty sản xuất chút xíu chứ ăn thì chẳng sao cả. Bán được thì lời gấp cả 3-4 lần bán hàng công ty", người phụ nữ này giải thích thêm.

Tương tự, tại một đại lý khác chuyên về các loại gia vị chính hãng, cách đại lý Hòa N. khoảng 60-70 m, PV cũng được trả lời rằng chỉ có hàng công ty, nhưng nếu lấy bao nhiêu mì chính Trung Quốc cũng có. Chỉ có điều, phải đặt tiền trước mới có hàng.

Dân không ăn, chỉ đem đổ buôn

Rời hai đại lý trên phố, PV tìm đến chợ Thổ Tang. Tại các quầy hàng tạp hóa ở chợ này, khác hẳn với các đại lý, mỳ chính Tàu giá hơn 30.000 đồng/kg được bày bán tràn lan. Hàng lúc nào cũng sẵn chứ không phải đặt trước.

Khi hỏi mua mỳ chính, bà L., một tiểu thương chuyên bán buôn, bán lẻ hàng tạp hóa ngồi ngay tại mặt tiền phía cổng chợ hỏi lại rằng mua về ăn hay mua về làm hàng, đổ mối. "Nếu mua về cho gia đình ăn thì cô lấy hàng công ty, giá 55.000 đồng/kg, hàng chuẩn đảm bảo ngon". Nói xong, bà L. liền chỉ tay sang số mì chính được đóng vào túi nilon không bao bì nhãn mác (mỗi túi có trọng lượng khoảng 1kg). Còn loại mì chính bên cạnh rẻ hơn nhiều, chỉ 33.000 đồng/kg bán lẻ.
 
Mì chính Tàu: Bao nhiêu cũng có, nhãn hiệu nào cũng chiều 2
Chỉ cần đặt tiền trước, số lượng bao nhiêu cũng có thể đáp ứng được

"Đây là loại mì chính nhập từ Trung Quốc, ở chợ này ai cũng biết, chỉ có cô người dân vùng khác là không biết thôi. Cố lấy nhiều không, nếu lấy nhiều tôi để giá hữu nghị cho. Cứ lấy khoảng vài tạ trở lên, giá sẽ giảm xuống còn 30.000 đồng/kg", bà L. nói.

Không chỉ vậy, tại một quầy tạp hóa bên trong chợ của chị Q., PV cũng được giới thiệu loại mì chính chuẩn, hàng của công ty sản xuất chất lượng 10 thì mì chính Tàu chỉ được 6-7. Tuy nhiên, nhìn bề ngoài, cánh mì chính không khác gì hàng công ty, nếu không phải người buôn bán chuyên nghiệp thì không thể nhận biết được.

Chị Q. tiết lộ, loại mì chính Tàu dân ở đây chỉ nhập buôn về bỏ mối nhà hàng, quán ăn, chứ gia đình dùng thì họ chọn loại hàng do công ty sản xuất.

Mỳ chính Tàu đội lốt hàng công ty

Tuy nhiên, khi PV ngỏ ý muốn mua loại mì chính Tàu được đóng gọi giống hết hàng công ty, chị Q. nhìn quanh một lượt như để dò xét rồi nói: "Mì chính Tàu giả hàng công ty chứ gì? Loại ấy thì em phải đặt trước 100% số tiền bọn chị mới có hàng cho em chứ loại hàng này "nhạy cảm", không cẩn thận là chết ngay nên chẳng ai dám để ở chợ cả. Ngay cả các đại lý cũng vậy, họ chỉ bán loại hàng này cho mối quen biết lâu năm thôi".

Cũng theo lời chị Q., loại hàng này giá sẽ cao hơn loại đóng bao 25 kg kia khoảng 3-4 giá. Song, về mẫu mã bao bì thì không khác gì so với hàng công ty, muốn nhãn hiệu nào đều có nhãn hiệu đó.

Thừa nhận chuyện trên, chị B.T.H., một lao động tự do tại chợ Thổ Tang nhiều năm nay kể, chị đã từng được một đại lý cạnh chợ Thổ Tang thuê một tuần liền về nhà chỉ chuyên ngồi đóng các loại gia vị như: mì chính, bột canh vào bao nhỏ để xuất bán đi các nơi.

"Họ có máy làm chuyên nghiệp lắm. Bột canh mỳ chính toàn bao lớn 25-50kg nhập từ Trung Quốc về, thuê người cho vào các bao gói nhỏ rồi cân lên theo đúng trọng lượng ghi trên bao bì, túi 1kg, 0,5kg, 0,25kg... loại nào cũng có. Hàng đóng ra giống hệt hàng nhập từ công ty, không tài nào phân biệt được nếu xếp vào hộp lẫn lộn giữa hai loại hàng", chị H. cho hay.

Ngoài ra, chị H. còn kể thêm, lúc chị được thuê, tại cơ sở đó lúc nào cũng có khoảng 10 nhân công chuyên ngồi đóng gói các loại mì chính, bột canh. Tiền công được tính trên sản phẩm. Mỗi ê kíp có hai người, một người chuyên xúc vào bao gói, một người chuyên cân rồi cho vào máy hàn miệng túi, mỗi bao 50kg được trả 50.000 đồng/người.
 
Theo VEF

Những lầm tưởng khi uống sữa

Cập nhật lúc: 07h35"  | 11/06/2013

(VnMedia)  - Hiện nay các sản phẩm sữa được sử dụng phổ biến trong nhiều gia đình. Sữa là thức uống cần thiết vì nó chứa nhiều chất dinh dưỡng. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách sử dụng đúng, nhiều người vẫn còn lầm tưởng tai hại khi uống sữa.

Ngoài khả năng cung cấp can-xi phòng ngừa loãng xương, sữa nói chung còn có tác dụng tăng cường sức đề kháng, ngăn ngừa các bệnh về dạ dày và đường ruột…

Tuy nhiên, nếu uống sữa không đúng cách, chẳng những bạn không hấp thu được các dưỡng chất trong sữa mà còn có hại cho sức khỏe. Dưới đây là những lầm tưởng khi uống sữa:

Đun sôi sữa

Nhiều người cho rằng, khi mua sữa tươi về cần khử trùng, vậy là đun sôi sữa lên thật kỹ. Xong hầu hết các loại sữa trên thị trường là những sản phẩm đã được tiệt trùng, không cần thiết phải đun sôi.

Thông thường, nhiệt độ khử độc của sữa yêu cầu không cao, ở 70º trong 3 phút, 60º trong 6 phút là được. Nếu nấu sôi, nhiệt độ đạt đến 100 º, chất lactose trong sữa sẽ xuất hiện hiện tượng cháy, đường cháy có thể dẫn đến ung thư. Ngoài ra, can-xi trong sữa sau khi nấu sôi sẽ xuất hiện hiện tượng kết tủa phốt phát, từ đó giảm thấp giá trị dinh dưỡng của sữa.



Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Lưu trữ sữa

Sữa không nên để ngoài ánh sáng mặt trời. Nhiều nghiên cứu khẳng định rằng các vitamin B1, B2 và vitamin C trong sữa khi tiếp xúc với ánh sáng trong một thời gian rất ngắn, sẽ sớm bị biến mất, vì 3 chất dinh dưỡng này sẽ bị phá vỡ trong ánh mặt trời. Ngoài ra dưới ánh nắng lactose sẽ lên men làm cho sữa biến chất.

Uống sữa quá đặc

Nhiều người quan niệm rằng, cho trẻ uống sữa càng đặc càng tốt. Tuy nhiên, theo các chuyên gia dinh dưỡng, nếu cho trẻ thường xuyên uống sữa quá đặc sẽ gây ra đau bụng, táo bón, ăn uống không ngon hoặc thậm chí cự tuyệt thức ăn, còn dẫn đến viêm ruột non xuất huyết cấp tính. Điều này là do cơ quan nội tạng của trẻ còn yếu mềm, chịu không nổi gánh nặng và áp lực quá nặng.

Uống sữa quá gần bữa ăn

Uống sữa quá nhanh và gần bữa ăn sẽ làm một số lượng lớn các protein được tiêu thụ như nhiệt, khi uống đi vào dạ dày sẽ hình thành một hiện tượng bão hòa, ảnh hưởng đến lượng thức ăn của bữa chính. Nếu uống sữa, nên uống cách bữa ăn 1- 2 giờ đồng hồ để dạ dày có thể hấp thụ protein và tiêu hóa thức ăn tốt nhất. Nên ăn một số thực phẩm chứa tinh bột như bánh mì cùng với uống sữa.

Dùng sữa uống thuốc

Sữa chứa rất nhiều chất sắt, canxi và các nguyên tố vi lượng, vì vậy, nếu uống thuốc với sữa sẽ gây ra tương tác, có thể hình thành các hợp chất hoặc các muối không hòa tan. Điều này không chỉ gây ra sự mất chất dinh dưỡng sữa, mà còn làm giảm hiệu quả của thuốc. Do đó, nên uống thuốc trước hoặc sau khi uống sữa 1 - 2 giờ là tốt nhất.

Thêm sô cô la vào sữa

Nhiều người cho rằng, cho sô cô la vào sữa tăng thêm dinh dưỡng. Tuy nhiên, khi làm như can-xi trong sữa và acid oxalic trong sô cô la sản sinh ra phản ứng hóa học, hình thành "can-xi oxalic acid". Do đó, chất can-xi vốn dĩ có giá trị dinh dưỡng lại biến thành một chất gây hại cho cơ thể, từ đó gây ra thiếu can-xi, đau bụng, trẻ em sinh trưởng chậm, tóc lông xơ cứng, dễ gãy xương và tăng tỉ lệ phát bệnh sỏi đường tiết niệu...

Uống sữa chua

Sữa chua là một loại đồ uống mạnh khỏe có lợi cho tiêu hóa. Tuy nhiên, vi khuẩn acid lactic trong sữa chua hình thành nên kháng sinh, mặc dù có thể khống chế rất nhiều vi khuẩn nguồn bệnh sinh trưởng, nhưng đồng thời cũng phá vỡ điều kiện sinh trưởng nhóm vi khuẩn bình thường có ích đối với cơ thể, còn ảnh hưởng đến chức năng tiêu hóa thông thường, đặc biệt là trẻ em mắc chứng viêm dạ dày đường ruột và trẻ em sinh non. Nếu cho những trẻ đó uống sữa chua có thể sẽ gây ra nôn mửa và viêm ruột dạng hoại tử.

Thêm nước trái cây vào sữa

Thự tế, nước hoa quả có chứa acid AHA cao, acid AHA gặp protein trong sữa sẽ làm cho protein biến chất, từ đó giảm thấp giá trị dinh dưỡng của protein.

Cho sữa vào cháo

Nhiều bà mẹ đã cho sữa vào cháo để tăng dinh dưỡng của bát cháo cho trẻ. Tuy nhiên, thực tế cách làm này là sai lầm. Trong sữa hàm chứa vitamin A, còn cháo chủ yếu tinh bột là chính, trong đó hàm chứa Lipoxygenase sẽ phá hỏng vitamin A. Trẻ em nếu dung nạp không đủ vitamin A sẽ làm cho trẻ em phát triển chậm chạp, cơ thể yếu nhiều bệnh, vì vậy dù là để bổ sung dinh dưỡng thì cũng cần phân khai sử dụng hai loại này.

Phạm Minh

Cách Chữa Đột Quỵ Kịp Thời Để Cứu Người Bệnh

Theo điều tra của Tổ chức Y tế Thế giới, đột quỵ là một trong 10 nguyên nhân gây tử vong hàng đầu. Tại 2/3 số quốc gia được khảo sát, tai biến này là 1 trong 3 nguyên nhân gây tử vong cao nhất. Nếu phát hiện và điều trị sớm, bệnh nhân sẽ được cứu sống và tránh để lại những di chứng nặng nề về sau.

Sau khi nhận diện người bị tai biến mạch máu não

Có một câu chuyện kể lại rằng: "Trong bữa tiệc BBQ, một người bạn bị mất thăng bằng suýt ngã, bà ta trấn an mọi người là bà không sao cả, chỉ bị trượt trên gạch vì đôi giày mới… Vài người đã giúp phủi bụi cho bà (thay vì kêu xe cứu thương) và làm cho bà một đĩa thức ăn mới. Bà Ingrid tiếp tục cuộc vui cùng bạn bè cho đến hết buổi chiều. Khi mọi người mới về đến nhà, thì nhận được điên thoại cuả chồng bà Ingrid, báo tin là vợ ông đã được đưa vào bệnh viện lúc 6 giờ chiều, và đã qua đời vì tai biến mạch máu não trong bữa tiệc BBQ. Nếu có người biết cách nhận ra triệu chứng tai biến mạch máu não, có lẽ bà Ingrid có thể vẫn còn sống với chúng ta hôm nay.

Bài viết dưới đây, chúng tôi giới thiệu đến các bạn một phương pháp rất đơn giản và hữu hiệu để có thể kịp thời cứu sống người đột quỵ

Cây kim có thể cứu sống bệnh nhân đột quỵ. Rất có thể các bạn đã nhận được thông tin này rồi, nhưng biết thêm vẫn tốt. Hãy giữ một cây kim (nhớ là thật sạch) ở trong nhà để làm điều này. Đây là một cách vô cùng kỳ diệu và độc đáo để cứu người bị đột quỵ. Hãy đọc thật kỹ biết đâu có ngày bạn sẽ có dịp sử dụng kiến thức này để cứu người.

Bài viết này thật tuyệt. Hãy giữ nơi thuận lợi nhất. (Tốt nhất là học thuộc và giữ nó trong đầu của bạn). Đây là các mẹo tuyệt hảo. Hãy bỏ ra một vài phút để đọc. Biết đâu có ngày hữu dụng. Mạng sống của ai đó có thể phụ thuộc vào bạn.

Khi có người bị đột quỵ, hãy hết sức bình tĩnh. Cho dù bệnh nhân đang ở đâu, cũng không được di chuyển. Vì nếu bị di chuyển, các mạch máu não sẽ vỡ ra. Hãy giúp bệnh nhân ngồi tại chỗ và giữ không cho bệnh nhân bị ngã, rồi bắt đầu chích cho máu chảy ra. Nếu bạn có sẵn một cây kim tiêm ở nhà thì tốt nhất, nếu không có kim tiêm, bạn có thể dùng kim may hoặc một cây kim thẳng. (Nhớ là phải rửa tay thật sạch trước khi thực hiện các việc sau đây):

1. Hơ kim trên lửa để khử trùng rồi dùng nó để chích mười đầu ngón tay.

2. Không có các huyệt cụ thể, chỉ cần chích cách các móng tay 1mm.

3. Chích đến khi nào máu chảy ra.

4. Nếu máu không chảy ra được, hãy dùng ngón tay của bạn để nặn ra.

5. Khi tất cả mười đầu ngón tay đều đã có máu chảy ra, hãy chờ vài phút, nạn nhân sẽ hồi tỉnh.

6. Nếu nạn nhân bị méo miệng, hãy kéo hai tai nạn nhân cho đến khi cả hai tai đều đỏ lên.

7. Sau đó, chích vào dái tai cho đến khi mỗi dái tai có chảy ra hai giọt máu. Sau vài phút nạn nhân sẽ hồi tỉnh.
Chờ cho đến khi nạn nhân trở lại trạng thái bình thường không có một triệu chứng bất thường nào nữa thì mới chở nạn nhân vào bệnh viện vì nếu vội vàng chở đi bệnh nhân đi ngay đến bệnh viện bằng xe cấp cứu, xe chạy bị xóc sẽ làm cho các mạch máu não của bệnh nhân vỡ tung ra. Nếu nạn nhân có được cứu sống, ráng lắm mới đi lại được thì cũng do phước đức ông bà để lại mà thôi.

Irene Liu kể lại rằng:"Tôi học được phương pháp cứu người bằng cách chích cho máu chảy ra từ Bác sĩ Ha Bu-Ting ở Sun-Juke. Hơn nữa tôi cũng đã từng có kinh nghiệm thực tế. Vì vậy tôi có thể nói phương pháp này hiệu quả đến 100%. Năm 1979, tôi đang dạy tại trường Đại học Fung-Gaap ở Tai-Chung. Một ngày nọ tôi đang dạy ở trong lớp thì có một giáo viên khác chạy đến lớp tôi và nói trong hơi thở hổn hển: "Cô Liu ơi, mau lên, sếp bị đột quỵ rồi!"

Tôi chạy ngay lên tầng 3. Khi tôi nhìn thấy sếp tôi, ông ChenFu-Tien, thì ông ta da đã nhợt nhạt, nói ngọng nghịu, miệng méo - tất cả các hiện tượng của chứng đột quỵ. Tôi liền nhờ một học sinh đến một tiệm thuốc bên ngoài trường học mua một cây kim và dùng nó chích mười đầu ngón tay ông Chen. Khi tất cả mười đầu ngón tay của ông ta đã chảy máu (mỗi ngón tay đều chảy một giọt máu bằng hạt đậu), sau vài phút, khuôn mặt của ông Chen hồng hào trở lại và đôi mắt cũng đã có thần hơn. Nhưng miệng ông ta vẫn còn méo. Thế là tôi kéo tai ông ta cho máu chảy đến tai. Khi tai ông ta đã đỏ, tôi liền chích vào 2 dái tai của ông để nặn ra hai giọt máu. Khi cả hai tai đều đã được nặn máu, mỗi bên hai giọt, thì một điều kỳ diệu đã xảy ra. Trong vòng 3 - 5 phút, miệng ông ta đã trở lại hình dáng bình thường và giọng nói trở nên rõ ràng. Tôi để cho sếp tôi nghỉ ngơi một lát và uống một tách trà nóng, rồi tôi giúp ông đi xuống cầu thang và chở ông đến bệnh viện. Ông nghỉ tại bệnh viện một đêm và hôm sau được xuất viện để trở về trường dạy học.

Mọi việc xảy ra rất bình thường. Không hề có một tác động nào xấu để lại. Mặt khác, nạn nân đột quỵ thường phải chịu tình trạng mạch máu não bị vỡ  khó tránh khỏi trên đường đi đến bệnh viện. Kết quả là các nạn nhân này sẽ không bao giờ phục hồi được. Sau khi kể lại câu chuyện này Irene Liu tiếc nuối rằng: "Cha tôi đã bị liệt và sau đó đã chết vì bị đột quỵ. Ước gì mà tôi đã biết được cách sơ cứu này trước khi chuyện đau lòng ấy xảy ra. Khi bị bệnh nhân bị đột quỵ, các mạch máu não sẽ bị vỡ".

Vì vậy đột quỵ là nguyên nhân dẫn đến tử vong rất nhanh. Những người may mắn có thể sẽ sống sót nhưng phải chịu liệt suốt đời. Điều này thật là khủng khiếp. Nếu như tất cả chúng ta có thể nhớ phương pháp chích cho máu chảy ra và bắt đầu quá trình cứu người ngay tức khắc, chỉ trong một thời gian rất ngắn, nạn nhân đã có thể hồi sinh và trở lại bình thường.

Chúng tôi hi vọng rằng các bạn sẽ bày cho người khác phương pháp sơ cứu này. Bằng cách làm như vậy, đột quỵ sẽ bị chuyển khỏi danh sách các nguyên nhân chính gây tử vong và giúp người bệnh thoát chết trong gang tấc.

                                                                                                                                                                                      Sống Khỏe

Thuốc hay từ cây lưỡi rắn

suckhoedoisong.vn - Ngày 31 tháng 12, 2012 | 09:16


Con rắn là một dược liệu quý từ lâu đời đã được sử dụng làm thuốc chữa bệnh và bồi bổ sức khỏe. Trên thực tế, có những loại cây mang tên con vật này cũng có tác dụng phòng chữa nhiều bệnh. Nhân năm Quý Tỵ sắp đến, xin giới thiệu đến bạn đọc về cách dùng cây lưỡi rắn - xà thiệt làm thuốc.

Cây lưỡi rắn còn có tên khác là nọc sởi, xương cá, vương thái tô, đơn đòng, xà thiệt thảo, mai hồng.  Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây, thu hái vào mùa hè thu khi có hoa. Dùng tươi hoặc khô. Cây lưỡi rắn chứa chất corymbosin, scandosid, asperulosid, asperglavcid, acid geniposidic và một số chất khác. Theo Đông y, cây lưỡi rắn có tác dụng thanh nhiệt giải độc. Dùng chữa rắn cắn, sốt rét.
Thuốc hay từ cây lưỡi rắn 1
Cây lưỡi rắn (xà thiệt thảo).
Cách dùng xà thiệt thảo làm thuốc:
Chữa rắn cắn: Khi bị rắn cắn lập tức buộc garô phía trên vết cắn để nọc khỏi lan theo hệ tuần hoàn; dùng sợi tóc kéo căng gạt qua gạt lại trên bề mặt vết cắn để làm bật phần ống nọc còn cắn vào da thịt. Hút máu qua giác hút hay ống hút. Lấy 1 nắm cây lưỡi rắn (khoảng 100g) rửa sạch, nhai nuốt lấy nước, bã còn lại đắp lên vết cắn. Sau 5 - 7 phút có thể cởi bỏ garô. Sau 2 - 3 giờ uống lại nước sắc cây lưỡi rắn 1 lần.
Chữa sốt rét: Cây lưỡi rắn 6g, mã tiên thảo (cỏ roi ngựa) 6g, thường sơn 6g. Sắc uống.
Thuốc hay từ cây lưỡi rắn 2
Cây lưỡi rắn hoa trắng (bạch hoa xà thiệt thảo).
Cỏ lưỡi rắn hoa trắng
Cỏ lưỡi rắn hoa trắng còn có tên bạch hoa xà thiệt thảo. Tên khoa học: Hedyotis diffusa Willd. Cỏ lưỡi rắn và bạch hoa xà thiệt thảo tương đối giống nhau. Nhưng có điểm khác biệt là bạch hoa xà thiệt thảo ít phân cành hơn. Lá mọc đối, gốc và đầu lá nhọn, dài 1-3,5cm, rộng 1-3mm. Hoa mọc đơn độc hoặc đôi ở kẽ lá, hoa màu trắng, cuống hoa ngắn. Bộ phận dùng làm thuốc là toàn cây, thu hái vào mùa hè thu khi có hoa. Dùng tươi hoặc khô. Cây bạch hoa xà thiệt thảo cũng chứa một số chất như trong cây cỏ lưỡi rắn, ngoài ra còn có stigmasterol, B-sitosterol, sitosterol-o-glucose… Theo Đông y, bạch hoa xà thiệt thảo vị ngọt hơi đắng, tính hàn; vào kinh vị, đại tràng và tiểu tràng, được dùng ở nước ta để chữa rắn cắn, chữa sởi, đậu… Ở Trung Quốc, dùng làm thuốc chữa viêm họng, viêm amidan, viêm đường tiết niệu, viêm vùng chậu; chữa phế nhiệt, hen suyễn; hỗ trợ ung thư dạ dày trực tràng, ung thư gan thời kỳ đầu.
Cách dùng bạch hoa xà thiệt thảo làm thuốc:
Lợi mật, bảo vệ gan: Bạch hoa xà thiệt thảo 10g, hạ khô thảo 10g, cam thảo 5g. Sắc uống trong ngày.
Trị rắn cắn: Bạch hoa xà thiệt thảo 20g (tươi 60g). Sắc với 200ml rượu. Gạn nước chia  uống 3 lần. Bã đắp vào vết rắn cắn.
Chữa sỏi mật, viêm ống mật: Bạch hoa xà thiệt thảo 30g, nhân trần 30g, kim tiền thảo 30g. Sắc uống trong ngày.
Chữa viêm thận cấp: Bạch hoa xà thiệt thảo 15g, xa tiền thảo 15g, bạch mao căn 30g, chi tử 9g, tô diệp 6g. Sắc uống.
Trị ho do viêm phổi: Bạch hoa xà thiệt thảo tươi 40g, trần bì 8g. Sắc uống.
Chữa viêm amidan cấp: Bạch hoa xà 12g, xa tiền thảo 12g. Sắc uống.
TS. Nguyễn Đức Quang

Tránh nhầm lẫn bạch hoa xà với bạch hoa xà thiệt thảo

suckhoedoisong.vn - Ngày 10 tháng 3, 2012 | 15:06

Rất nhiều người thường nhầm lẫn giữa hai vị thuốc bạch hoa xà và bạch hoa xà thiệt thảo. Đây lại là những vị thuốc thường được sử dụng trong y học cổ truyền. Do vậy, cần phân biệt kỹ trước khi dùng. Xin giới thiệu để bạn đọc hiểu rõ về hai loại cây này.

Vị thuốc bạch hoa xà, là rễ và lá của cây bạch hoa xà (Plumbago zeylanica L.), họ đuôi công (Plumbaginaceae). Bạch hoa xà là loại cây thảo, chỉ cao độ 50 - 70cm. Thân ít nhiều bị hóa gỗ, khúc khuỷu, có đốt và có khía dọc. Lá so le, dài 5 - 7cm, rộng 3 - 5cm, hình trứng hay bầu dục thuôn, mép lượn sóng, đầu lá nhọn, mặt trên màu lục, mặt dưới trắng nhạt, cuống lá như ôm vào thân. Cụm hoa mọc thành bông ở ngọn, gồm nhiều hoa màu trắng, đài hoa hình trụ có cạnh rõ, phủ đầy lông tuyến dính. Hoa màu trắng, 5 cánh hình trứng ngược. Cây được trồng làm cảnh và làm thuốc ở nhiều nơi, chủ yếu ở vùng đồng bằng và trung du Bắc Bộ nước ta.
Bạch hoa xà có các thành phần flavonoid, phenol, triterpen, các hợp chất plumbagin 0,91%, chitranon, zeylenon, matrinon…; axít hữu cơ: acid palmitic, linoleic… Bạch hoa xà trên thực nghiệm có tác dụng chống viêm, ức chế nhiều chủng vi khuẩn: tụ cầu vàng, trực khuẩn than, trực khuẩn đại tràng, trực khuẩn thương hàn, trực khuẩn mủ xanh…; còn có tác dụng kháng nấm: Penicillium canadense,  Penicillium  notatum, tác dụng chống đông máu, chống bệnh bạch cầu lympho, chống khối u, chống sự làm tổ của trứng. Do đó, bạch hoa xà cấm dùng cho phụ nữ có thai. Và do vị thuốc này có độc tính mạnh nên chủ yếu chỉ được dùng ngoài. Sau đây là một số cách dùng bạch hoa xà làm thuốc:

 Bạch hoa xà.
Chữa đinh nhọt, tràng nhạc, phong hủi, lở ngứa
: lấy lá tươi hay rễ non, giã nát, đắp vào chỗ bị bệnh, cũng có thể lấy rễ tươi, giã nát, băng vào chỗ bị chai chân với thời gian khoảng 2 giờ. Lưu ý: lá và rễ của cây này dễ  gây rộp da nên khi đắp cần gói thuốc trong miếng vải gạc rồi băng bên ngoài, khi có cảm giác nóng thì bỏ ra.
Chữa thấp khớp, đau đớn, nhức mỏi: chỉ lấy phần thân trên mặt đất, bỏ hết lá, rửa sạch, phơi khô, thái mỏng, sao vàng, ngâm rượu (100g dược liệu với 500ml rượu 35 độ) trong 2 - 3 tuần lễ, uống ngày 2 lần, mỗi lần 20ml trước bữa ăn.
Có thể dùng rễ bạch hoa xà ngâm rượu để xoa bóp khi bị đau nhức xương. Ngoài ra có thể dùng rượu ngâm rễ bạch hoa xà để chữa hắc lào, ghẻ lở.
Cây bạch hoa xà thiệt thảo (Hedyotis difusa Will.), họ cà phê (Rubiaceae) là loài thân thảo, chỉ cao độ 20-25cm. Thân vuông màu nâu nhạt. Lá mọc đối, hình mác, thuôn, đầu lá nhọn, dài 1 - 1,3cm, rộng 1 - 3mm, gốc và đầu lá nhọn, có gân giữa nổi rõ. Hoa màu trắng, có cuống, có 4 cánh, ống tràng dài 1,5mm, mọc đơn độc hoặc đôi một ở kẽ lá. Bạch hoa xà thiệt thảo mọc hoang ở nhiều nơi trong nước ta, thu hái vào mùa hạ, nhổ toàn cây, rửa sạch đất cát, phơi khô, khi dùng sao qua là được. Trong cây chủ yếu chứa iridoid: asperulosid, scandosid, feruscandosid…, các axít: asperulosidic, oleanolic, p. coumaric… Stigmasterol, beta - sistosterol…
Trên thực nghiệm, bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng ức chế  hiện tượng gây đột biến do aflatoxin B1 tạo nên, khi dùng chủng vi khuẩn Samonella tiphymorium TA 100. Còn có tác dụng chống viêm, đặc biệt ức chế mạnh tế bào ung thư lympho, tế bào ung thư bạch cầu hạt và bạch cầu đơn nhân, với nồng độ 0,5 - 1g dược liệu/ml, còn có tác dụng ức chế tế bào báng ehrlich và tế bào carcinom. Do đó, người ta thường dùng bạch hoa xà thiệt thảo phối hợp với cây bán chi liên (Scutenlaria barbata) để trị ung thư.
 Bạch hoa xà thiệt thảo.
Theo y học cổ truyền, bạch hoa xà thiệt thảo có vị ngọt đắng, tính hàn, quy kinh vị, đại tràng, tiểu tràng, có tác dụng thanh nhiệt, giải độc, tiêu u, tán ứ, lợi thấp. Có thể dùng liều 15- 60g, sắc uống. Một số cách dùng bạch hoa xà thiệt thảo làm thuốc:
Trị các bệnh thận cấp tính, nước tiểu có albumin: bạch hoa xà thiệt thảo 15g, bạch mao căn 30g, chi tử 9g, tô diệp 6g, sắc uống.
Chữa sỏi mật: bạch hoa xà thiệt thảo, kim tiền thảo, nhân trần mỗi thứ 30g, xa tiền tử 16g. Sắc uống ngày 1 thang.
Trẻ em bị sốt cao, co giật: bạch hoa xà thiệt thảo tươi, khoảng 30g, rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt, uống mỗi lần 1 thìa canh, ngày 2-3 lần.
Ngoài ra, cần tránh nhầm lẫn giữa cây bạch hoa xà thiệt thảo với cây lưỡi rắn, còn gọi là cây xương cá hay cây vương thái tô [Hedyotis corymbosa (L.) Lamk.]  vì chúng cùng chi (Hedyotis), lại cùng họ cà phê (Rubiaceae). Về hình thái thực vật trông hao hao giống nhau, cũng là loài cỏ, độ cao tương tự nhau, thân cũng vuông, lá cũng mọc đối, hoa cũng màu trắng… Chỉ khác là cụm hoa của lưỡi rắn mọc ở kẽ lá thành xim, gồm 2 - 5 hoa. Khác với bạch hoa xà thiệt thảo, cây lưỡi rắn chủ yếu dùng trị rắn cắn: sau khi xử lý vết rắn cắn, như garô, nặn máu…, dùng 100g cây tươi  giã nát, lấy nước cốt uống, bã đắp vào vết thương. Có thể dùng cây này nấu nước rửa vết thương, mụn nhọt… 
GS.TS. Phạm Xuân Sinh
Cây lưỡi rắn (nguồn ảnh: trongraulamvuon.com)

Loài Hedyotis diffusa Willd. (Cây Lưỡi Rắn Trắng)

Tên
Tên khác: Bạch hoa xà thiệt thảo, An điền lan, Bòi ngòi bò, Cỏ lưỡi rắn hoa trắng
Tên khoa học: Hedyotis diffusa Willd.
Tên đồng nghĩa: Oldenlandia diffusa (Willd.) Roxb.
Họ: Cà phê (Rubiaceae)
Tên nước ngoài: Bai hua she she cao, Snake-needle grass.
Mẫu thu hái tại: Đồng nai, tháng 05-2009.
Số hiệu mẫu: LRT 0509

Thân cỏ, mọc bò, có đốt thưa. Thân non 4 cạnh, màu xanh hay nâu nhạt; thân già tiết diện tròn, màu nâu tím, thân càng già càng nâu đậm, bề mặt có nhiều nốt sần. đơn, mọc đối. Phiến lá thuôn hẹp, đầu nhọn; dài 1.5-3 cm, rộng 1-3 mm, mặt trên màu xanh lục đậm và có nhiều chấm lốm đốm, mặt dưới nhạt hơn. Bìa lá nguyên, hơi cuộn xuống phía dưới. Lá có một gân giữa nổi rõ ở mặt dưới, các gân bên không rõ. Không có cuống lá. Lá kèm là một phiến màu xanh nhạt, cao 1.5-2 mm; đỉnh chia 2-3 răng không đều, màu nâu nhạt. Hoa riêng lẻ hiếm khi 2 hoa ở nách lá. Hoa nhỏ, đều, lưỡng tính, mẫu 4. Cuống hoa 1-5 mm, màu nâu. Bao hoa: Lá đài 4, màu xanh, mép và gân giữa màu nâu tím, hơi dính ở đáy; 4 thùy hình tam giác hay hình trứng nhọn ở đầu, dài 1 mm, bìa có rìa lông; tiền khai van. Cánh hoa 4, màu trắng hay phớt tím; ống tràng cao 2 mm, loe ở họng, bên trong không có lông; 4 thùy ngắn hơn ống tràng, hình bầu dục, đầu nhọn; tiền khai van. Nhị 4, đính ở gần họng tràng, xen kẽ cánh hoa; chỉ nhị màu trắng, ngắn; bao phấn dài bằng chỉ nhị, màu trắng ngà, 2 ô, nứt dọc, đính giữa, hướng trong. Hạt phấn rời, màu vàng nhạt, hình cầu, đường kính 30-32 mm, có 1-3 lỗ nảy mầm, bề mặt có nhiều chấm tròn, chiết quang. Lá noãn 2, bầu dưới, 2 ô, mỗi ô nhiều noãn, đính noãn trung trụ, giá noãn rất lồi. Vòi nhụy 1, màu vàng nhạt, nhẵn, dài 2 mm, đính trên đỉnh bầu. Đầu nhụy 2, màu trắng, thuôn dài, nằm sát nhau, dài tương đương vòi nhụy, có nhiều gai nạc. Quả nang; cuống màu tím ở gốc, màu xanh ở ngọn. Quả hình bán cầu hơi hẹp lại ở đỉnh, có 2 thùy cạn, cao 2-2.5 mm, rộng 3 mm, các lá đài tồn tại hơi tỏa ra nhưng không vuông góc với quả. Vỏ quả khi non màu xanh, khi già màu vàng nâu. Hạt nhiều, nhỏ, màu nâu vàng, hình dạng khác nhau: đa giác, trứng hay bầu dục có góc cạnh, kích thước 0.3x0.2 mm. Dưới kính hiển vi độ phóng đại 100 lần thấy bề mặt hạt có nhiều vân đậm hình đa giác.
Hoa thức và Hoa đồ:


Tiêu bản:
Đặc điểm giải phẫu:
Vi phẫu thân trưởng thành gần tròn. Biểu bì là những tế bào hình vuông hay hình chữ nhật, kích thước to và khá đều, có lỗ khí rải rác. Mặt ngoài biểu bì có lớp cutin răng cưa mỏng; lông che chở đơn bào to, ngắn, đầu tù, bề mặt có vết lấm tấm. Mô mềm vỏ là mô mềm đạo, gồm 3-4 lớp tế bào, hình tròn hay hình bầu dục nằm ngang, kích thước không đều, vách mỏng, có các tinh thể calci oxalat hình kim tập trung thành từng bó trong tế bào. Nội bì tạo thành vòng liên tục, tế bào hình chữ nhật hay đa giác, kích thước không đều, thân già thấy rõ đai Caspary, lớp nội bì phát quang khi soi bằng ánh sáng huỳnh quang. Tế bào trụ bì kích thước nhỏ hơn nội bì. Libe 1 xếp thành từng cụm, tế bào nhỏ, vách uốn lượn. Libe 2 gồm 2-3 lớp tế bào hình chữ nhật, dẹp, xếp khá đều. Vùng gỗ 2 gồm từ 5-7 lớp tế bào, mạch gỗ 2 to, hình đa giác, nằm rải rác; tia gỗ nhiều, tia libe tế bào có kích thước khá lớn. Bó gỗ 1 thường cấu tạo bởi 2-3 mạch gỗ, phân hóa ly tâm rõ; ít nằm phía dưới các mạch gỗ 2 mà thường có ở dưới vùng mô mềm gỗ cấp 2. Mô mềm tủy là những tế bào tròn hay hơi đa giác, kích thước không đều, xếp chừa những đạo nhỏ. Tinh thể calci oxalat hình khối hiếm.Vi phẫu lá: Gân giữa: Mặt trên hơi lõm, tế bào biểu bì hình bầu dục đứng, cutin có răng cưa cạn. Biểu bì dưới tế bào gần tròn, nhỏ hơn tế bào biểu bì trên; lông che chở đơn bào ngắn, rộng, đầu hơi thuôn, bề mặt có nhiều chấm. Tế bào mô mềm to, hình đa giác, không đều, xếp chừa những đạo nhỏ. Cung libe gỗ hướng về phía dưới: gỗ ở trên, mạch gỗ hình đa giác, tia gỗ rõ; libe ở dưới. Mô dày góc nằm trên gỗ và phía dưới libe.
Phiến lá: Tế bào biểu bì trên rất to, hình vuông, bầu dục hay đa giác có cạnh. Mô mềm giậu gồm 2 lớp tế bào, lớp trên là những tế bào thuôn dài, lớp dưới xếp xen kẽ và có kích thước bằng 1/2 lớp trên. Mô mềm khuyết là những tế bào hình bầu dục hay tròn xếp chừa những khuyết nhỏ. Tế bào biểu bì dưới hình bầu dục hẹp, kích thước rất nhỏ so với tế bào biểu bì trên, có nhiều lỗ khí. Tinh thể calci oxalat hình kim và hình khối ít.
Vi phẫu rễ: Bần gồm 2-3 lớp tế bào hình chữ nhật, kích thước nhỏ. Mô mềm vỏ đạo, hình tròn hay bầu dục nằm ngang, có tinh thể calci oxalat hình kim thành từng bó nằm trong tế bào nhưng không nhiều. Libe 1 rõ, libe 2 ít. Gỗ 2 chiếm tâm, mạch gỗ to, hình bầu dục hay đa giác nhưng không nhiều.
Đặc điểm bột dược liệu:
Bột toàn cây gồm các thành phần sau: Mảnh biểu bì thân gồm những tế bào hình đa giác thuôn dài, mang lỗ khí kiểu song bào. Mảnh biểu bì trên của lá tế bào hình đa giác, hơi dài, không có lỗ khí. Mảnh biểu bì dưới của lá, tế bào có vách uốn lượn, mang lỗ khí kiểu song bào, khe lỗ khí hẹp. Mảnh mô mềm. Hạt phấn hoa tròn, có 1-3 lỗ nảy mầm. Mảnh vỏ quả trong. Mảnh vỏ hạt tế bào hình đa giác. Mảnh nội nhũ. Mảnh mạch gồm các loại: mạch xoắn, mạch vạch, mạch mạng. Tinh thể calci oxalat hình kim, hình khối ít.
Phân bố, sinh học và sinh thái:
Đông Nam và Tây Nam Trung Quốc, các nước nhiệt đới ở vùng Châu Á. Cây mọc ở nhiều nơi, thường gặp ở các bờ ruộng, vùng trung du và đồng bằng, nhất là vào tháng 6. Ra hoa quanh năm nhưng chủ yếu vào mùa hè-thu, tháng7-9.
Bộ phận dùng:
Toàn cây (Herba Hedyotidis diffusae) thường được gọi là Bạch hoa xà thiệt thảo. Thu hái vào mùa hè, thu. Rửa sạch, phơi khô để dùng.
Thành phần hóa học:
Cây có các flavonoid như: kaempferol, kaempferol 3-O-beta-D-glucopyranosid, kaempferol3-O-(6"-O-L-rhamnosyl)-beta-D-glucopyranosid, quercetin 3-O-beta-D-glucopyranosid và quercetin 3-O-(2"-O-beta-D-glucopyranosyl)-beta-D-glucopyranosid. Ngoài ra còn có acid urolic, b-sitosterol, stigmasterol, các iridoid glucosid như: 6-O-p-coumaroyl, 6-O-p-methoxycinnamoyl và 6-O-feruloyl ester của scandosid methyl ester.
Tác dụng dược lý - Công dụng:
Tác dụng bảo vệ thần kinh trên chuột thử nghiệm. Cây có tác dụng ức chế mạnh tế bào ung thư lympho, tế bào ung thư bạch cầu hạt và bạch cầu đơn nhân. Với nồng độ 0.5-1 g dược liệu/ml có tác dụng ức chế tế bào báng Ehrlich và tế bào carcinom. Cây còn có tác dụng ức chế hiện tượng gây đột biến do aflatoxin B1 tạo nên, khi dùng chủng vi khuẩn Salmonella typhymurium TA 100 làm thí nghiệm. Ngoài ra, cây cũng kích thích sự tăng sinh của tế bào lách chuột, do đó người ta cho rằng dược liệu có khả năng điều hòa miễn dịch. Về tác dụng chống viêm, nước sắc H. diffusa tăng cường khả năng thực bào của hệ thống mô lưới - nội mô (reticulo endomethelium) và của tế bào bạch cầu.
Công dụng
Rất thông dụng với tên Bạch hoa xà thiệt thảo (Việt nam) hay Bai hua she she cao (Trung Quốc). Cây được sử dụng ở nước ta từ thời Tuệ Tĩnh, dùng chữa rắn cắn, sởi đậu, chống ung thư; trị lậu, máu xấu, thiếu mật, bao tử bị ung nhọt và bệnh, trị bệnh gan, hạch, ung thư... Ở Trung Quốc được dùng làm thuốc chống viêm, chữa phế nhiệt, hen suyễn, viêm họng, viêm amygdale, viêm đường tiết niệu, viêm vùng chậu. Dùng ngoài, chữa vết thương, rắn cắn, côn trùng đốt, đau lưng, đau khớp. Còn dùng điều trị hỗ trợ cho bệnh nhân ung thư dạ dày, trực tràng, ung thư gan thời kỳ đầu. Ở Ấn Độ, cây dùng trị bệnh về gan mật, vàng da, sốt, lậu, máu xấu.
H. diffusa còn kết hợp với H. corymbosaMollugo pentaphylla dưới tên Peh-Hue-Juwa-Chi-Cao như một tác nhân chống khối u và dùng cho bệnh nhân ung thư sau xạ trị.
Bài thuốc có Bạch hoa xà thiệt thảo:
- Chữa viêm thận cấp có phù, nước tiểu có albumin: Bạch hoa xà thiệt thảo, Xa tiền thảo mỗi thứ 15 g, Mao căn 30 g, Sơn chi tử 9 g, Tô diệp 6 g. Sắc nước uống.
- Chữa sỏi mật, viêm ống mật: Bạch hoa xà thiệt thảo, Nhân trần, Kim tiền thảo mỗi thứ 30 g, làm thành thuốc uống.
- Chữa mụn nhọt, vết thương sưng đau: Bạch hoa xà thiệt thảo 30-60 g. Sắc nước uống.
- Chữa trẻ em kinh nhiệt (sốt, co giật), khó ngủ: Bạch hoa xà thiệt thảo tươi, giã nát, vắt lấy nước, uống mỗi lần một thìa canh, ngày 2-3 lần.
- Thuốc tiêm Bạch hoa xà thiệt thảo: Mỗi ống 2 ml, dung dịch trong, vàng đậm, dùng tiêm bắp, mỗi lần 2-4 ml, ngày 2 lần. Dùng chữa viêm nhiễm đường hô hấp trên, viêm amygdale, viêm phổi, viêm túi mật, viêm ruôt thừa, còn dùng trị ung thư.

Loài Hedyotis corymbosa (L.) Lam. (Cây Lưỡi Rắn)

Tên
Tên khác: Cóc mẵn, Lưỡi rắn, Bòi ngòi ngù, Vỏ chu, Vương thái tô, Đơn dòng, Đơn thảo, Xương cá, Nọc sởi, Mai hồng, An điền, Xà thiệt thảo, Tán phòng hoa nhĩ thảo
Tên khoa học: Hedyotis corymbosa (L.) Lam.
Tên đồng nghĩa: Oldenlandia corymbosa L.
Họ: Cà phê (Rubiaceae)
Tên nước ngoài: Hedyotis à fleur diamant, Flat-top mille graines, Diamond flower
Mẫu thu hái tại: thành phố Hồ Chí Minh, tháng 4-2009
Số hiệu mẫu: LR 0409

Thân cỏ, hơi mập, mọc sà, phân nhánh nhiều, dài 30-40 cm, không lông. Thân non tiết diện vuông, màu xanh hay nâu tím; thân già tiết diện tròn, màu nâu. đơn, mọc đối. Phiến lá thuôn hẹp, hai đầu nhọn, dài 2-4 cm, rộng 4-8 mm, mặt trên màu xanh đậm, mặt dưới nhạt hơn; bìa lá nguyên. Gân lá hình lông chim, chỉ có gân chính nổi rõ, các gân phụ khó thấy bằng mắt thường nhưng có thể thấy được qua kính lúp. Cuống lá ngắn, mép lá men dần xuống cuống. Lá kèm là một phiến mỏng, màu trắng trên chia 4-5 tơ, trong đó 2 tơ bìa dài khoảng 1.5-2 mm, các tơ giữa ngắn hơn.Cụm hoa là xim mang 2-4 hoa ở nách lá đôi khi ở ngọn cành. Hoa màu trắng hay tím nhạt. Hoa đều, lưỡng tính, mẫu 4. Cuống hoa dài 2-10 mm. Lá bắc và lá bắc con màu xanh, dạng vảy dài 0.5 mm. Lá đài 4, màu xanh, hơi dính nhau ở phía dưới, trên chia 4 thùy hình tam giác hẹp, dài khoảng 1 mm, tiền khai van. Cánh hoa 4, ống tràng cao 1-2 mm; 4 tai thuôn dài, đầu nhọn dài bằng ống tràng; tiền khai van. Phía trong họng tràng có nhiều lông dài, màu trắng. Nhị 4, rời, đính ở đáy ống tràng, xen kẽ cánh hoa. Chỉ nhị dài bằng bao phấn; bao phấn hình bầu dục, màu nâu, 2 ô, đính giữa, hướng trong, nứt dọc. Hạt phấn rời, nhỏ, tròn, đường kính 20-25 μm, màu trắng ngà, có 1-3 lỗ nảy mầm. Lá noãn 2, bầu dưới, 2 ô, mỗi ô chứa nhiều noãn, đính noãn trung trụ, giá noãn rất lồi. Vòi nhụy 1, rất ngắn, màu trắng; đầu nhụy 2, màu vàng có nhiều gai nạc.Quả nang, cao 1.5-2 mm, rộng 2-3 mm, có 2 thùy cạn, mặt ngoài có 4 gân, đài tồn tại. Quả lúc non màu xanh, lúc già màu vàng nhạt.Hạt nhiều, nhỏ, màu nâu vàng, kích thước 0.4x0.3 mm. Quan sát dưới kinh hiển vi độ phóng đại 100 lần thấy hạt hình bầu dục hơi có góc cạnh hay hình nón, trên bề mặt hạt có nhiều vân hình đa giác.
Hoa thức và Hoa đồ:


Tiêu bản:
Đặc điểm giải phẫu:
Vi phẫu thân có 4 cạnh, 2 cạnh phẳng và 2 cạnh hơi lồi. Tế bào biểu bì hình chữ nhật, có lỗ khí rải rác; lớp cutin khá dày, có răng cưa cạn. Mô dày tròn ít, nằm ở 4 góc thân. Mô mềm vỏ là mô mềm đạo, gồm 6-8 lớp tế bào hình bầu dục, nằm ngang, kích thước không đều, vách mỏng; rải rác có các tinh thể calci oxalat hình kim riêng lẻ hay tập trung thành bó. Nội bì là một lớp tế bào hơi dẹp, khá đều ở thân non và trưởng thành; đai Caspary chỉ thấy rõ được ở đoạn thân già. Trụ bì gồm 1 lớp tế bào kích thước nhỏ, xếp xen kẽ nội bì; tuy nhiên có một vài vị trí lớp trụ bì không rõ, khi đó các cụm libe 1 áp sát nội bì. Libe 1 xếp thành từng cụm, tế bào có kích thước nhỏ, không đều, vách uốn lượn. Libe 2 gồm 3-4 lớp tế bào hình chữ nhật, xếp khá đều. Gỗ 2 khá nhiều, mạch gỗ gần tròn hay bầu dục, tập trung ở 2 cạnh phẳng, 2 cạnh lồi chỉ có một vài mạch gỗ; tia gỗ nhiều, 1-2 dãy tế bào. Gỗ 1 rất nhiều, phân hóa ly tâm rất rõ, nằm phía dưới vùng có nhiều mạch gỗ 2, mỗi bó gồm 2-3 mạch gỗ. Các tế bào mô mềm tủy tròn hay bầu dục, kích thước không đều, càng vào trong càng to dần, xếp chừa những đạo nhỏ; tinh thể calci oxalat hình khối ít.Vi phẫu lá: Gân giữa: Mặt trên lõm, tế bào biểu bì gần vuông hay bầu dục đứng, xếp sát nhau. Mặt dưới lồi và tròn, kích thước tế bào biểu bì không đều, hơi lớn hơn tế bào biểu bì trên, cutin có răng cưa cạn, đôi khi có lông che chở đơn bào ngắn, rộng. Tế bào mô mềm to, hình đa giác hay gần tròn, xếp chừa những đạo hoặc khuyết nhỏ. Cung libe gỗ hướng về phía dưới, libe ở dưới, gỗ ở phía trên. Các dãy mạch gỗ xen kẽ với mô mềm gỗ vách còn cellulose. Phía trên gỗ và phía dưới libe có một ít mô dày góc.
Phiến lá: Tế bào biểu bì trên rất to, hình chữ nhật hay gần vuông, tròn ở cạnh dưới, cutin mỏng; rải rác có lông che chở đơn bào ngắn. Mô mềm giậu có 1 lớp tế bào, hình bầu dục, ngắn, phía dưới mỗi tế bào biểu bì có khoảng 4-7 tế bào mô mềm giậu. Mô mềm khuyết cấu tạo bởi những tế bào thuôn, hơi có góc cạnh, kích thước không đều, xếp chừa những khuyết to; rải rác có các bó tinh thể calci oxalat hình kim nằm trong tế bào. Tế bào biểu bì dưới nhỏ, bằng 1/5-1/10 tế bào biểu bì trên, lỗ khí nhiều.
Vi phẫu rễ: Bần gồm 2-3 lớp tế bào hình chữ nhật xếp xuyên tâm. Mô mềm vỏ đạo, 4-5 lớp tế bào hình bầu dục, nằm ngang, các bó tinh thể calci oxalat hình kim và tinh thể calci oxalat hình khối nằm rải rác. Libe 1 rõ, thành từng cụm, tế bào nhỏ, vách hơi uốn lượn. Libe 2 nhiều, 6-7 lớp tế bào hình chữ nhật xếp xuyên tâm. Gỗ 2 chiếm tâm; mạch gỗ rất nhiều, kích thước không đều, hình tròn hay bầu dục.
Đặc điểm bột dược liệu:
Bột toàn cây gồm các thành phần sau: Mảnh biểu bì thân tế bào hình đa giác hơi thuôn dài. Mảnh biểu bì trên tế bào hình chữ nhật hay đa giác vách hơi uốn lượn. Mảnh biểu bì dưới tế bào có vách uốn lượn nhiều, mang lỗ khí kiểu song bào. Mảnh mô mềm. Hạt phấn hoa tròn, có 1-3 lỗ nảy mầm. Mảnh vỏ quả trong. Mảnh vỏ hạt, tế bào nhỏ, vách hơi uốn lượn. Mảnh nội nhũ. Mảnh mạch gồm nhiều loại: mạch xoắn, mạch vòng, mạch vạch, mạch mạng. Tinh thể calci oxalat hình kim, hình khối. Mảnh bần là những tế bào hình chữ nhật xếp xuyên tâm.
Phân bố, sinh học và sinh thái:
Loài phân bố khắp nơi, thường gặp ở sân vườn, đất nghèo, bình nguyên đến độ cao 300 m. Trên thế giới vùng phân bố của cây bao gồm hầu hết các nuớc trong khu vực có khí hậu nhiệt đới ở Nam Á và Đông Nam Á như Ấn Độ, Xri Lanka, Malaysia, Thái Lan, Indonesia, Campuchia, Lào và đảo Hải Nam, Trung Quốc; còn có ở Châu Phi và Châu Mỹ. Cây ưa sáng và ẩm, thường mọc thành đám trên các bãi đất hoang, vườn, ruộng cao và nương rẫy. Cây có thể sống được trên nhiều loại đất, sinh trưởng và phát triển nhanh trong vụ hè thu và tàn lụi trước mùa đông. Cây ra hoa nhiều, khi quả già tự mở để phát tán hạt ra xung quanh.
Bộ phận dùng:
Toàn cây (Herba Hedyotidis corymbosae). Rửa sạch, dùng tươi, phơi khô hay sao vàng.
Thành phần hóa học:
Phần trên mặt đất chứa deacetylasperulosid, asperulosid, acid asperulosidic, acid deacetylasperulosidic, 10-O-benzoyldeacetyl asperulosidic methyl ester, scandosid methyl ester, 10-O-benzoyl scandosid methyl ester, 10-O-p. hydroxylbenzoyl scandosid methyl ester, 10-O-pcoumaroyl scandosidmethyl ester (Otsuka Heideoki và cs, 1991). Theo "Trung dược từ hải", tập I, 1993 cây có chứa corymbosin, asperulosid, acid geniposidic, scandosid, asperglavcid. Ngoài ra trong lá còn chứa rất nhiều vitamin C.
Tác dụng dược lý - Công dụng:
Toàn cây có tác dụng thanh nhiệt, giải độc; acid geniposidic trong cây có tác dụng tẩy xổ.
Công dụng
Theo kinh nghiệm dân gian, cây được dùng tươi để giải độc, chữa rắn cắn rất có hiệu quả. Khi bị rắn độc cắn, lập tức đặt garô phía trên vết rắn cắn cho nọc độc khỏi lan nhanh vào tuần hoàn của cơ thể, tiếp đó lấy một sợi tóc căng thẳng gạt đi gạt lại trên bề mặt vết thương để làm bật những răng phụ của rắn còn cắm trong da, nặn cho máu chảy ra. Sau đó lấy 100 g cây tươi rửa sạch, giã nát, vắt lấy nước cốt cho uống, dùng bã đắp lên vết thương, băng lại, khi uống thuốc nên cởi dây garô. Ngày uống 2-3 lần. Những lần sau tăng liều lượng lên 200 g. Sau khi uống thuốc, người bị nạn thấy đỡ đau nhức, ngủ được.
Ngoài tác dụng chữa rắn cắn, cây còn chữa sốt cao, sốt cách nhiệt, đau nhức xương, thấp khớp. Ở Đài Loan, cây cũng được dùng làm thuốc hạ sốt. Ở Philipines, dùng làm thuốc kiện vị, bổ thần kinh và chữa đau răng. Ở Malaysia, cây được giã nát, đắp ngoài để là lành vết thương. Ở Trung Quốc và Ấn Độ, cây được dùng như một vị thuốc cổ truyền để chữa các rối loạn về gan, đau lá lách và sưng gan, vàng da. Các nghiên cứu gần đây cho thấy H. corymbosa có tác dụng bảo vệ gan chống lại sự ngộ độc paracetamol. Ngoài ra, cây còn chữa sốt rét, ung thư ruột, bỏng, trị lãi; rễ trị đau dạ dày.

Loài Plumbago zeylanica L. (Cây Bạch Hoa Xà)

Tên
Tên khác: Đuôi công hoa trắng, Nhài công, Lài dưa, Bươm bướm, Cây mộng mắt, Cây lá đinh, Bạch tuyết hoa, Pít pì khao (Tày), Co nhả cam (Thái).
Tên khoa học: Plumbago zeylanica L.
Họ: Đuôi công (Plumbaginaceae)
Tên nước ngoài: Ceylon leadwort, white leadwort, smart waterbossic, white-flowered leadwort (Anh); dentelaire de Ceylan (Pháp).
Mẫu thu hái tại: Thảo cầm viên, Thành phố Hồ Chí Minh tháng 06/2010.
Số hiệu mẫu: BHX0610, được lưu tại Bộ môn Thực vật-Khoa Dược

Bụi cao 0,5-1 m, cành yếu gần như mọc leo. Thân non tiết diện đa giác, thân già tiết diện gần tròn. Thân màu xanh lục, có nhiều sọc dọc màu xanh nhạt hơn hoặc màu đỏ, gốc thân màu tía nhạt. đơn, mọc cách, phiến lá hình trứng đầu nhọn, màu xanh lục, mặt dưới nhạt hơn và phủ 1 lớp bột màu trắng, kích thước 6-8 x 4-4,5 cm, men dần theo cuống. Gân lá hình lông chim, 8-9 cặp gân phụ mọc cách, nổi rõ ở mặt dưới. Cuống lá ngắn hình lòng máng, kích thước 0,3x1 cm, màu xanh lục nhạt hơn phiến, có nhiều gân dọc. Trên phiến lá và cuống lá đôi khi có một vài lông dài, trắng. Cụm hoa: Chùm ở ngọn cành gồm 12-32 hoa. Trục cụm hoa hình trụ, màu xanh lục, dài 6-9 cm, có nhiều sọc dọc màu xanh nhạt và nhiều lông ngắn đầu tròn, màu xanh. Hoa đều, lưỡng tính, mẫu 5. Cuống hoa hình trụ ngắn, màu xanh lục nhạt, dài 0,15-0,2 cm. Lá bắc hình trái xoan, đầu thuôn nhọn, màu xanh lục, có 1 gân giữa, kích thước 0,8-1x 0,35-0,4 cm. Lá bắc con giống lá bắc nhưng kích thước nhỏ hơn 0,6-0,7 x 0,1-0,15 cm. Lá đài 5, đều, dính, tồn tại, nhiều lông dài đầu tròn, màu xanh; ống đài hình trụ hơi phình to ở đáy, màu xanh lục, cao 1,2-1,3 cm, đường kính 0,2 cm, trên chia 5 răng hình tam giác nhọn, cao 0,15 cm, trên ống đài có 5 rãnh nông màu xanh nhạt hơn, tiền khai van. Cánh hoa 5, đều, màu trắng, dính; ống tràng hình trụ cao 2,2-2,5 cm, có 5 rãnh nông; 5 thùy hình trứng ngược, đầu nhọn, có những vân dọc, kích thước 0,8-0,9 x 0,4-0,5 cm, 1/2 ống tràng nằm trong ống đài. Tiền khai hoa vặn ngược chiều kim đồng hồ. Nhị 5, rời, gần đều. Chỉ nhị dạng sợi màu trắng, dài 1,4-1,6 cm, đứng trước cánh hoa, nhị không thò ra khỏi ống tràng; ở hoa non bao phấn hình bầu dục màu tím nhạt, ở hoa già đáy bao phấn hơi choãi ra 2 bên. Bao phấn dài 0,1 cm, 2 ô, nứt dọc, hướng trong, đính giữa. Hạt phấn hình bầu dục, có rãnh dọc, màu vàng nhạt, kích thước 55 x 45 µm. Lá noãn 5, bầu trên, 1 ô, 1 noãn, đính noãn đáy. Bầu noãn hình tháp, màu xanh lục, có 5 gân dọc màu xanh đậm. 1 vòi nhụy dạng sợi, phía dưới hơi phình to, màu trắng, dài 1,5-1,6 cm. 5 đầu nhụy dạng sợi dài 0,1 cm, có những nốt màu trắng. Quả nang, hình trụ, mang đài tồn tại, kích thước 0,8-0,9 cm x 0,15-0,2 cm, quả non màu xanh, quả già màu nâu, mặt ngoài có nhiều nếp nhăn. Hạt 1, hơi dẹp, màu nâu sáng, mép sắc bén, có 4-5 gân hơi lồi, kích thước 0,5 x 0,1 cm.
Hoa thức và Hoa đồ:


Tiêu bản:
Đặc điểm giải phẫu:
Vi phẫu rễ hình tròn. Thụ bì 2-3 lớp tế bào hình chữ nhật hoặc đa giác. Bần 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật xếp xuyên tâm. Nhu bì 1-2 lớp tế bào hình chữ nhật xếp xuyên tâm với bần. Mô mềm vỏ đạo, 10-12 lớp tế bào hình đa giác hoặc bầu dục, một số ít tế bào hóa sợi. Libe 1 phân bố từng cụm, tế bào đa giác nhỏ, vách uốn lượn, xếp lộn xộn. Libe 2, 3-5 lớp sát gỗ tế bào hình chữ nhật, các lớp bên ngoài tế bào hình gần đa giác, xếp thẳng hàng. Gỗ 2 chiếm tâm, mạch gỗ 2 hình tròn, đa giác hoặc bầu dục. Mô mềm gỗ 2 tế bào hình đa giác, xếp xuyên tâm. Tia tủy 1-3 dãy tế bào đa giác rộng hoặc hẹp. Hạt tinh bột hình tròn hay đa giác, kích thước từ 5-10 µm, xếp thành từng đám hoặc riêng lẻ, có nhiều trong mô mềm vỏ.
Thân:
Vi phẫu thân hình đa giác. Biểu bì 1 lớp tế bào hình bầu dục hoặc đa giác, lớp cutin dày, rải rác có lỗ khí và tế bào biểu bì có hình dạng đặc biệt. Mô dày góc không liên tục, tế bào hình bầu dục hoặc đa giác, phân bố nhiều ở góc lồi, 6-11 lớp, ở cạnh 1-2 lớp. Mô mềm vỏ đạo, 3-6 lớp tế bào thường hình bầu dục, một số tế bào hình đa giác, kích thước không đều, xếp lộn xộn. Ngay bên ngoài cụm libe 1 là 2-3 lớp tế bào hình đa giác xếp lộn xộn vách cellulose, kế đến là 2-7 lớp tế bào hình đa giác, hóa sợi thành 1 vòng gần như liên tục; giữa những cụm sợi là một vài tế bào mô cứng. Hệ thống dẫn cấu tạo cấp 2 theo kiểu hậu thể gián đoạn gồm nhiều bó libe-gỗ, mỗi bó gồm: libe 1 tế bào nhỏ hình đa giác, vách uốn lượn, xếp từng cụm; libe 2, 2-5 lớp tế bào hình chữ nhật, xếp xuyên tâm; gỗ 2 gồm 4-16 mạch gỗ 2 hình tròn, bầu dục hoặc đa giác, xếp thành 1-2 dãy hoặc xếp lộn xộn; mô mềm gỗ 2 tế bào hình đa giác, xếp xuyên tâm; gỗ 1 phân hóa ly tâm, 1-2 bó, mỗi bó gồm 1-2 mạch gỗ hình tròn, mô mềm gỗ 1 tế bào hình đa giác vách tẩm chất gỗ, một số vách còn cellulose. Khoảng gian bó 6-10 dãy tế bào hình đa giác vách tẩm chất gỗ trong vùng gỗ, vách cellulose trong vùng libe. Mô mềm tủy đạo, tế bào hình tròn hoặc đa giác, kích thước to, hóa mô cứng; 2-4 lớp mô mềm tủy sát gỗ 1 hình bầu dục hoặc đa giác, kích thước nhỏ, hóa mô cứng vách dày hơn.
:
Gân giữa: Vi phẫu lồi ở cả 2 mặt, mặt dưới lồi và uốn lượn nhiều hơn. Biểu bì 1 lớp tế bào hình chữ nhật, ít khi đa giác, tế bào biểu bì trên kích thước to và lớp cutin dày hơn, lỗ khí ở cả 2 mặt. Mô dày góc, tế bào hình đa giác, kích thước không đều, xếp lộn xộn. Mô dày trên 6-7 lớp chỉ có ở chỗ lồi, mô dày dưới 2-5 lớp. Mô mềm giậu, 2 lớp tế bào hình bầu dục rộng có ở 2 bên cụm mô dày trên. Mô mềm đạo, đa số tế bào hình tròn ít khi hình đa giác, kích thước to. Hệ thống dẫn cấu tạo cấp 1 gồm 10-11
(4 bó lớn), mỗi bó gồm: gỗ ở trên, 4-18 mạch gỗ 1 hình tròn, bầu dục hoặc đa giác, kích thước không đều xếp lộn xộn; libe ở dưới, 1-4 lớp sát gỗ tế bào hình chữ nhật, xếp xuyên tâm, các lớp còn lại tế bào hình đa giác nhỏ, vách uốn lượn, xếp lộn xộn; xung quanh bó libe-gỗ là 3-4 lớp tế bào mô mềm hình đa giác hoặc bầu dục, kích thước nhỏ.
Phiến lá: Biểu bì giống ở gân giữa, lỗ khí nhiều ở cả 2 mặt. Mô mềm giậu 1-2 lớp tế bào hình bầu dục rộng. Mô mềm khuyết tế bào hình tròn, đa giác hoặc bầu dục, khuyết nhỏ. Bó gân phụ rải rác với gỗ ở trên, libe ở dưới.
Ở vi phẫu lá cũng có những tế bào biểu bì có hình dạng đặc biệt như ở thân.
Cuống lá:
Hình dạng, cấu tạo cuống lá giống cấu tạo gân giữa của vi phẫu lá. Hai bên có
cánh cấu tạo như sau: Biểu bì 1 lớp tế bào hình chữ nhật, lớp cutin dày, tế bào biểu bì dưới kích thước nhỏ hơn, lỗ khí có ở 2 mặt. Mô dày góc có ở biểu bì dưới, 2-3 lớp tế bào hình đa giác, xếp lộn xộn. Mô mềm khuyết tế bào hình tròn, bầu dục hoặc đa giác, khuyết nhỏ. Rải rác có bó gân phụ với gỗ ở trên, libe ở dưới.
Đặc điểm bột dược liệu:
Bột lá: Bột hơi mịn, màu xanh lục đậm. Thành phần: Mảnh biểu bì mang lỗ khí kiểu dị bào hay hỗn bào (nhìn từ trên xuống), mảnh mô mềm giậu (nhìn ngang), mảnh mô mềm, mảnh biểu bì có tế bào đặc biệt, mảnh mạch xoắn, vạch.
Bột rễ: Bột thô, có ít xơ, màu nâu đậm. Thành phần: Mảnh bần, hạt tinh bột hình tròn hay đa giác, kích thước từ 5-9 µm, mảnh mô mềm, mảnh mô mềm chứa tinh bột, sợi, mảnh mạch xoắn, vạch, mạng, vòng.
Phân bố, sinh học và sinh thái:
Bạch hoa xà mọc hoang và được trồng ở Ấn Độ, Tây Bengal và các nước ở vùng Đông Nam Á, bao gồm Malyasia, Philippin, Lào, Campuchia, Thái Lan, Indonesia. Còn gặp ở một số nước thuộc vùng nhiệt đới châu Phi.
Ở Việt Nam, Bạch hoa xà vừa là cây hoang dại, vừa được trồng ở một số nơi. Cây mọc rải rác ở các tỉnh miền Trung và đồng bằng trung du Bắc bộ. Tuy nhiên hiện nay chưa phát hiện thấy cây thuốc này ở các tỉnh miền núi có độ cao trên 1000 m.
Bạch hoa xà là cây ưa ẩm, ưa sáng và có thể chịu bóng. Sau khi bị chặt đến sát gốc, phần còn lại tiếp tục tái sinh thành cây mới.
Bộ phận dùng:
Rễ và lá (Radix et Folium Plumbaginis). Rễ và lá thu hái quanh năm. Rễ đào về, rửa sạch, cắt thành từng đoạn ngắn rồi phơi khô để dùng dần. Lá thường được dùng tươi.
Thành phần hóa học:
Toàn cây Bạch hoa xà có flavonoid, hợp chất phenol, triterpen, acid hữu cơ, 0-cloroplumbagin, 3,3'-biplumbagin, chitranon, zeylenon, matrinon, 2-methyl napthazarin, plumbazeylanon, methylen-3,3'-diplumbagin, các acid plumbagic và vanilic. Rễ chứa plumbagin 0,91%. Hoa có 13 thành phần, plumbagin 81,85 %.
Tác dụng dược lý - Công dụng:
Tác dụng kháng khuẩn đối với các chủng: Staphylococcus aureus, Bacillus antracis, Proteus mirabilis, Shigella flexneri, Enterobacter cloaceae, Salmonella typhi, S. paratyphi, Pseudomonas aeruginosa, Klebsiella aerogenes, E. coli, Nesseria gonorrhea, Samonella Dublin, mycobacterium pheli.
Tác dụng chống viêm, trị mụn cóc, lang ben và hói đầu.
Chế phẩm Bạch hoa xà có khả năng làm giảm đáng kế các rối loạn vi tuần hoàn; các tổn thương gan thận.
Tác dụng chống sinh sản, chống sự làm tổ của trứng thụ tinh.
Tác dụng chống đông máu ở chuột cống trắng.
Hoạt tính chống nấm đối với Entomophthora floccosum, Metarrhizium nana, Penicillium canadense, P.notatum, Rhinotrichum nigricans.
Tác dụng chống peroxy hóa lipid trong in vitro và in vivo trên chuột trắng.
Tác dụng tiêu diệt nhiều loài sinh vật độc hại: Acalymma vittata, Achaea janata, Mythimma separata, Corcyra cephalonica, Dysdercus cingulatus, Dysdercus cingulatus, Pectinophora gossypiella, Dysdercus koenigii, Heliothis virescens, Heliothis zea, Spilosoma oblique, Trichoplusiani.
Lá sao vàng sắc uống trừ hàn lãnh, huyết ứ của sản phụ. Dùng ngoài, chữa đinh nhọt, hắc lào, sưng vú (dùng lá, rễ tươi giã nát đắp).
Chữa chai chân đau không đi được (rễ tươi rửa sạch giã đắp, sau 2 giờ bỏ ra).
Nhân dân thường dùng rễ hay lá tươi giã nhỏ với cơm thành một thứ bột nhão, đắp lên những chỗ sưng đau. Có nơi người ta sắc rễ lấy nước bôi ghẻ, dùng lá Bạch hoa xà giã nát đắp lên đầu chốc lở đã rửa sạch đến khi thấy nóng thì bỏ ra.
Theo kinh nghiệm dân gian Trung Quốc, rễ khô Bạch hoa xà sắc uống chữa phong thấp đau xương, sưng khớp, gan lách sưng to, tâm vị đau tức. Giã lá hoặc rễ tươi đắp vết thương sưng đau, rắn cắn.

Bạch hoa xà

bach hoa xa Bạch hoa xà
Plumbago zeylanica L. (Nguồn ảnh:tuelinh.vn)

Tên khác:

Cây đuôi công.

Tên khoa học:

Plumbago zeylanica L., họ Đuôi công (Plumbaginaceae).
Cây mọc hoang nhiều nơi ở Việt Nam, có ở các nước Ấn Độ, Nhật Bản, Trung Quốc…

Bộ phận dùng:

Rễ, lá.

Thành phần hoá học chính:

Plumbagin (metyl-2-hydroxy-5-naphtoquinon-1-4).

Công dụng:

Làm thuốc chữa bệnh ngoài da, mụn nhọt ghẻ lở.

Cách dùng, liều lượng:

Rễ, lá giã nhỏ đắp lên nơi sưng đau. Sắc rễ lấy nước bôi ghẻ.

Ghi chú:

Ở nước ta còn có cây mang tên Đuôi công hay Xích hoa xà (Plumbago rosea L.), cùng họ, mọc hoang ở nhiều nơi, nhân dân sử dụng như cây Bạch hoa xà.
Cần phân biệt với cây Bạch hoa xà thiệt thảo – Cỏ lưỡi rắn hoa trắng (Hedyotis diffusa Willd.), họ Cà phê (Rubiaceae).
Xem thêm (liên quan bài thuốc có Bạch hoa xà thiệt thảo và Bán chi liên chữa ung thư):

Thời gian gần đây, tại Bệnh viện (BV) Ung bướu (TP.HCM) có người phát tán một bài thuốc cho rằng chữa được bệnh ung thư. Sự thật về bài thuốc này thế nào?  Mời nghe đọc bài

Lần phát tán trước về bài thuốc chữa được bệnh ung thư là vào giữa năm 2009, và trong những ngày gần đây lại xuất hiện tờ giấy in bài thuốc này. Mặc dù hình thức và nội dung có khác một chút, nhưng chung quy bài thuốc gồm có các vị: hồng táo (6 quả lớn, hoặc 10 quả nhỏ), lá thiết thụ (lá đu đủ - một ngọn, nếu không có thì thay bằng thiên niên kiện một nắm), bán chi liên (1 lạng), bách hoa xà thiệt thảo (2 lạng), bồ công anh (2 lạng). Trước khi nói về thành phần các vị thuốc, thì phía trên toa thuốc có đoạn nội dung: "Thang thuốc này do một người trước khi chết một ngày, sợ thất truyền mới tiết lộ bí mật gia truyền này. Từ đó đến nay biết bao người đã nhờ đó mà được cứu mạng. Mong mọi người truyền lại rộng rãi để làm từ thiện và để cứu nhân tích đức". Ngoài ra còn hướng dẫn cách sắc (nấu) thuốc, và nói về công dụng chữa được nhiều căn bệnh ung thư. Tờ giấy không ghi địa chỉ cụ thể của nơi bán thuốc, hay phòng chẩn trị bắt mạch, bốc thuốc nào.
Một nhân viên của BV Ung bướu cho biết, cách nay vài tháng, cũng xuất hiện một tờ giấy được photocopy chuyền nhau trong một số bệnh nhân, trong đó có ghi một số cây cỏ, vị thuốc khác và cũng nói chữa được bệnh ung thư.
Các lương y nói gì?
Theo lương y Phạm Như Tá (Hội Đông y Q.Bình Thạnh, TP.HCM) thì: "Khoảng năm 1971, 1972, tại Đài Loan, Hồng Kông, có một số vị trong bài thuốc nói trên như bán chỉ liên, bách hoa xà thiệt thảo được dư luận cho rằng dùng để chữa bệnh ung thư. Thực chất bài thuốc trên chỉ có tác dụng chính yếu là thanh nhiệt, giải độc, chữa ung nhọt... chứ không thể chữa hết được ung thư như nhiều người đồn thổi. Nhiều người nhầm lẫn giữa ung nhọt và ung thư".

"Cần lưu ý, đối với bệnh ung thư, một số thuốc mặc dù có công dụng bồi bổ, nhưng nhiều trường hợp chính thuốc bổ đó sẽ kích hoạt tế bào ung thư - những tế bào này lâu nay nằm im đó trong cơ thể, làm cho bệnh bộc phát, thêm trầm trọng" - Bác sĩ Phạm Xuân Dũng

Còn lương y Vũ Quốc Trung (hội viên Hội Đông y VN) thì cho biết: "Từ lâu nay, không có bài thuốc cổ phương nào trong y học cổ truyền nói về chữa bệnh ung thư mà bao gồm những vị thuốc y chang như bài thuốc nói trên. Mà cái chính là người ta thường nói về hai vị thuốc được sử dụng gọi là "hỗ trợ trong điều trị ung thư" gồm bán chi liên và bạch hoa xà thiệt thảo. Bạch hoa xà thiệt thảo có tác dụng khử phong, giảm đau, tán ứ, tiêu thũng, giải độc, sát trùng; bán chi liên có tác dụng thanh nhiệt giải độc, hoạt huyết, khử ứ, tiêu thũng, giảm đau, chống ung thư".
Người bệnh chớ cả tin
Ở những người mắc bệnh ung thư, tâm lý họ suy sụp, lo lắng, hễ nghe ở đâu có cách chữa trị là họ tìm đến. Bác sĩ Phạm Xuân Dũng, Phó giám đốc BV Ung bướu TP.HCM cho biết: "Tại BV cũng từng có một số bệnh nhân đang điều trị, nhưng xin thôi không tiếp tục điều trị nữa. Sau đó vài tháng có người quay trở lại xin điều trị tiếp, lúc này họ mới nói thật là mình đã đi uống thuốc ở một cơ sở nào đó tận tỉnh Long An theo rỉ tai của người khác. Có một số bệnh nhân sau khi quay trở lại thì bệnh tình đã nguy kịch hơn; một số người để lỡ mất việc chữa trị đúng, cơ hội chữa trị sớm".
"Trong thực tế, có một số bài thuốc có công dụng bồi bổ, hỗ trợ trong điều trị cho rất nhiều loại bệnh, chứ không riêng gì về bệnh ung thư. Tuy nhiên, cần lưu ý, đối với bệnh ung thư, một số thuốc mặc dù có công dụng bồi bổ, nhưng chính nó sẽ kích hoạt tế bào ung thư (những tế bào này lâu nay nằm im đó trong cơ thể) làm cho bệnh bộc phát, thêm trầm trọng. Chính vì vậy, trong lúc đang chữa trị ung thư với Tây y, nếu có muốn dùng thêm thuốc Đông y thì người bệnh cần tham khảo ý kiến của bác sĩ điều trị", bác sĩ Dũng khuyến cáo.
GS-BS Nguyễn Chấn Hùng (Chủ tịch Hội Ung thư TP.HCM, nguyên Giám đốc BV Ung bướu) cho rằng: "Thuốc y học cổ truyền có nhiều công dụng hay của nó. Tuy nhiên, với bệnh ung thư thì không phải dễ. Một số người đã lợi dụng cái gọi là "hỗ trợ trong điều trị ung thư" của một số bài thuốc cổ truyền, người bệnh cần cảnh giác".
Tương tự, lương y Vũ Quốc Trung cũng nhận định, ở một số bài thuốc cổ phương, cổ truyền có công dụng với những u bướu trong thời kỳ đầu, hoặc dùng để hỗ trợ sau phẫu thuật, hay trong lúc xạ trị, hóa trị chữa ung thư, nhằm nâng tổng trạng, giúp kéo dài thêm thời gian sống của người bệnh, chứ một khi đã xác định ung thư ở giai đoạn muộn, có di căn... thì hiện nay, cả Đông và Tây y không ai dám nói chữa hết được bệnh. Lương y Phạm Như Tá, cũng cho biết thêm, trước đây cũng từng có thời gian đồn thổi về bài thuốc chữa ung thư, bao gồm những vị thuốc: địa long (trùn đất), đậu đen, đậu xanh (sao vàng), rau bồ ngót (sao vàng) đem nấu uống... nhưng đều không có cơ sở khoa học.
Thanh Tùng