Trang

Chuyên đề Trinh nữ hoàng cung - khoahocphothong.com.vn

Chuyên đề Trinh nữ hoàng cung:

Bài 1: Tác dụng của trinh nữ hoàng cung đã được khoa học chứng minh

Thứ năm, 16/09/2010, 08:53 GMT+7

 
 

Từ lâu, trinh nữ hoàng cung đã được sử dụng trong dân gian để điều trị nhiều loại bệnh, trong đó có các khối u lành tính cũng như ác tính (ung thư). Sau 15 năm nghiên cứu, cho đến nay công trình nghiên cứu khoa học của chúng tôi đã đạt nhiều kết quả rất khả quan: tìm ra cách phân biệt trinh nữ hoàng cung với các loại cây tương tự khác bằng DNA (nhằm tránh cho nhiều người uống nhầm mà bị ngộ độc), xác định được các chất trong trinh nữ hoàng cung có tác dụng kháng u, chiết xuất được các chất này từ trinh nữ hoàng cung để chế tạo ra một loại thuốc (lấy tên là Crila) điều trị u bướu, thử nghiệm trên người và khẳng định tính hiệu quả của nó, hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất thuốc.

Để đạt được thành quả như trên, nhất là việc thử nghiệm lâm sàng trên người và được Bộ y tế cho phép lưu hành, trong 15 năm qua, chúng tôi đã thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp nhà nước với quy mô lớn.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Đánh giá tác dụng điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng viên nang trinh nữ hoàng cung", do GS.TS. Trần Đức Thọ, Viện lão khoa, Bệnh viện Bạch Mai làm chủ nhiệm đề tài, cho thấy: sau 2 tháng dùng thuốc Crila, nhóm bệnh nhân được nghiên cứu đạt hiệu quả khá và tốt là 89,18%, tác dụng không mong muốn nhẹ và chỉ gặp trên 24/157 trường hợp. Hội đồng khoa học đã đánh giá kết quả nghiên cứu này là xuất sắc. Dựa trên cơ sở đánh giá của Hội đồng khoa học cấp bộ, Cục quản lý dược đã cho phép viên nang Crila được lưu hành trên toàn quốc để điều trị u xơ tuyến tiền liệt.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Đánh giá hiệu quả và khả năng chấp nhận thuốc Crila trong điều trị bệnh u xơ nhẵn tử cung (u xơ tử cung)", do PGS.TS. Vương Tiến Hòa, Bệnh viện phụ sản trung ương làm chủ nhiệm đề tài, kết quả cho thấy: thuốc có hiệu quả điều trị đối với bệnh nhân u xơ tử cung (đặc biệt là đối với u xơ tử cung có kích thước từ 6 cm trở xuống) với hiệu quả điều trị đạt 79,5%. Thuốc có độ an toàn cao, không có tác dụng phụ, không ảnh hưởng đến chức năng gan, thận và các chức năng sống khác của cơ thể. Với kết quả nghiệm thu xuất sắc, hội đồng khoa học đã nhất trí đề nghị Bộ y tế cho phép bổ sung thêm tác dụng thứ hai của viên nang Crila là điều trị u xơ tử cung.

Theo chúng tôi được biết, cho đến nay, đây là loại thuốc sản xuất từ dược thảo đầu tiên trên thế giới có khả năng điều trị u xơ tử cung ở phụ nữ. Sản phẩm Crila là kết quả nghiên cứu của 4 đề tài khoa học cấp bộ, 2 dự án sản xuất thử nghiệm cấp bộ và cấp nhà nước cộng với quá trình nghiên cứu nhiều năm ở nước ngoài của TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm cùng các cộng sự.

Tìm hiểu về cây trinh nữ hoàng cung

Cây trinh nữ hoàng cung (Crinum latifolium L.) họ thủy tiên (Amaryllidaceae), thuộc loài cây thân thảo, gần giống cây náng hoa trắng, thân hành, đường kính 10 - 16 cm, bẹ lá úp vào nhau thành thân giả dài khoảng 8 - 15 cm, có màu đỏ tía của sắc tố antocyan. Lá mỏng hình dải, mép lá nguyên, hơi uốn lượn, dài 70 - 120 cm, rộng 3 - 9 cm, gân lá song song. Khác với lá náng hoa trắng là mặt dưới, giữa sống lá có một gờ sắc nhỏ chạy dọc theo lá. Cán hoa dài 20 - 50 cm, trên đầu mang 10 - 20 hoa hợp thành tán, có bẹ hình tam giác màu xanh ve, dài 5 - 7 cm, cuống hoa ngắn. Hoa dài 10 - 20 cm, đài và cánh hoa như nhau, màu trắng, ở giữa có vệt phớt hồng tạo thành ống dài 7 - 10 cm cong, nhị ngã, dài 5 - 7 cm. Bao phấn hình sợi dài 20 – 25 cm, dính lưng. Bầu hình ống chỉ, vòi nhị mảnh, vượt lên trên nhị.

Phân bố, thu hái, chế biến

Trinh nữ hoàng cung có nhiều ở Thái Lan, Campuchia, Việt Nam; cây phát triển tốt với khí hậu miền Nam nước ta. Bộ phận dùng là lá, dùng tươi hoặc phơi khô, có người xắt nhỏ sao khô, hạ thổ để dùng dần. Nhưng ở một số nước, người dân dùng cánh hoa, thân hành của cây, xắt nhỏ phơi khô.

Các chất có tác dụng kháng u

Từ năm 1983 cho đến nay, các công trình nghiên cứu về trinh nữ hoàng cung đã công bố thành phần hóa học của nó có khoảng 32 alcaloid. Trong số đó đáng quan tâm là một số alcaloid có tác dụng kháng u như: crinafolin, crinafolidin, lycorin, và  β -epoxyambellin tác dụng trên tế bào T - lymphocyte và còn có tác dụng kháng khuẩn như hamayne (bulbispenmin, flavonoid, demethylcrinamin). Ngoài alcaloid còn có các hợp chất bay hơi, aldehyd, acid hữu cơ, terpen và glucan A, glucan B.

Công dụng và liều dùng

Trong dân gian, người ta dùng nước sắc của lá trinh nữ hoàng cung để trị u xơ tử cung, u nang buồng trứng và u xơ tiền liệt tuyến. Cách dùng: mỗi ngày uống nước sắc của 3 lá trinh nữ hoàng cung hái tươi, xắt nhỏ ngắn 1 - 2 cm, sao khô màu hơi vàng, uống luôn trong 7 ngày rồi nghỉ 7 ngày, uống 7 ngày. Tổng cộng 3 đợt uống 7 x 3 x 3 = 63 lá, xen kẽ giữa 2 đợt nghỉ uống một đợt 7 ngày.

Phân biệt với các cây khác để tránh bị ngộ độc

Hiện nay trong nhân dân có nhiều người nhầm lẫn cây trinh nữ hoàng cung với một số cây náng khác, sử dụng lá đun sôi lấy nước uống bị ngộ độc, nôn ói. Do đó phải phân biệt rõ cây trinh nữ hoàng cung với các cây náng khác có tại Việt Nam. Ngay trong chi Crinum chỉ có Crinum latifolium L. có tác dụng trị u xơ theo kinh nghiệm dân gian.

Một số đặc điểm phân biệt náng hoa trắng và cây trinh nữ hoàng cung:

 

Để có thể phân biệt cây trinh nữ hoàng cung với cây lan huệ cùng chi Crinum, phải dựa trên sự khác nhau về hình thái thực vật. Sự khác nhau về hình thái giữa những cây này trình bày trong bảng sau:

 

 

Kỳ sau: U xơ tuyến tiền liệt và  trinh nữ hoàng cung


TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm
 

Chuyên đề trinh nữ hoàng cung:

Bài 2: U xơ tuyến tiền liệt và trinh nữ hoàng cung

Thứ sáu, 17/09/2010, 20:23 GMT+7

 
 

Những nghiên cứu về trinh nữ hoàng cung

Các chất  có tác dụng chữa bệnh

Năm 1984, Ghosal (Ấn Độ) đã phân lập và xác định từ cán hoa Crinum latifolium L. một glucoalcaloid có tên latisolin. Thủy phân bằng enzym thu được aglycon có tên latisodin (J. Chan. Res 1983). Ghosal và Shibnath còn phân lập được từ thân hành lúc cây đang ra hoa pratorimin và pratosin, là hai alcaloid pyrolophenanthrindon mới cùng với những chất đã được biết như pratonmin, ambelin và lycorin.

Năm 1986, Ghosal còn công bố tách được từ trinh nữ hoàng cung (TNHC) một số dẫn xuất alcaloid có tác dụng chống ung thư: crinafolin và crinafolidin. Các chất này đã được thử nghiệm với tế bào ung thư và cho kết quả dương tính. Năm 1989, Ghosal còn chiết từ dịch ép của cán hoa TNHC hai alcaloid mới có nhân pynolophennanthaidin là 2-epilycorin và 2-epipancrassidin.

Một số nhà khoa học Nhật Bản cũng tìm thấy một số ít alcaloid khác từ cây này như: crinamin, hamayne.

TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm và cộng sự đã tìm ra các alcaloid: 9 - octadecenanin, dihydro-oxodemethoxyhaemant hamin, augustamin, oxoassoanin, crinan-3 -ol, buphanidrin, powellin, undulatin, ambellin, 6 - hydroxybuphanidrin, 6- hydroxypowellin, crinamidin, 6- hydroxyundulatin, l, 2- epoxyambellin, 6-hydroxycrinamidin, epoxy 3, 7 - dimethoxycrinan -11 - on.

Bằng phương pháp sắc ký khí ghép khối phổ, TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm và cộng sự chiết một phân đoạn từ cao trinh nữ hoàng cung đã tách được các alcaloid: dihydro-oxod emethoxyhaemanthamin , augustamin, oxoassoanin, crinan-3- ol, buphanidrin, powellin, undulatin, ambellin, 6-hydroxy-buphanidrin 6- hydroxypowellin, crinamidin, 6- hydroxyundulatin, 1ß, ßepoxyambellin, epoxy-3,7- dimethoxycrinan-11-on (tentative), 6-hydroxycrinamidin.

Ngoài ra tác giả còn phát hiện trong lá trinh nữ hoàng cung có các chất bay hơi sau: fomamid, acetaldehyd, acetic acid, 2.2-dimethylpropanoic acid, cyanophenol, benzaidehyd, phenol, benzyl alcohol, phenylacetaldehyd, ocresol, p-cresol, 2.6- dimethylcyclohexanol, nonanal, benzoic acid, octanoic acid, N-methyl-Nphenylformamid, nonanoic acid, Npropylbenzamin, dihydroactinidiolid, dodecanoic acid, hexadecan, 2- methylhexadecan, decylbenzen, heptadecan, octadecan, 2.6.10.14- tetramethylpentadecan, N.Ndiphenyllormamid, phenanthren, 10.11-dihydro-2E,6E-farnesol, 2.6.10.14-tetramethylhexadecan, hexahydrofarnesylaceton, phytol.

Tác dụng sinh học của TNHC

Song song với các nghiên cứu về mặt hóa học, có nhiều công trình nghiên cứu về mặt sinh học từ cây TNHC đã được công bố. Các tác giả đã chứng minh được tác dụng sinh học của các alcaloid trong họ Amaryllidaceae rất rộng, bao gồm các đặc tính chống ung bướu, chống vi khuẩn và kích thích miễn dịch. Tác giả Yui và cộng sự đã chứng minh alcaloid lycorin là hoạt chất chính từ TNHC có tác dụng gây kích thích cho tế bào T trong ống nghiệm và trên sinh vật hoạt động, phát triển. Các tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trâm, E. Zveskova, E. Nikolova, E. Katzarova và Kostov cũng đã chứng minh được rằng dịch chiết nước nóng từ lá cây TNHC Việt Nam có thể kích thích hữu hiệu sự sinh sản của tế bào lympho T và đặc biệt có tác dụng kích thích trực tiếp các tế bào CD3 + T và CD4 + T trong ống nghiệm.

Theo tác giả Ghosal, một số alcaloid từ TNHC như: crinafolin, crinafolidin đã được thử nghiệm với tế bào ung thư và cho kết quả dương tính.

Các nghiên cứu tại Việt Nam

Trong những năm gần đây, nhân dân trong cả nước, đặc biệt ở TP.HCM và các tỉnh khu vực miền Trung đã dùng nước sắc lá cây TNHC để trị một số bệnh như u xơ tuyến tiền liệt và u xơ tử cung đạt kết quả. Bệnh viện hữu nghị Việt - Xô đã điều trị cho 158 bệnh nhân u tuyến tiền liệt và u xơ tử cung, đạt kết quả tốt.

Theo chúng tôi được biết, tại Viện sinh học nhiệt đới TP. HCM, nhóm nghiên cứu của GS.TS. Nguyễn Công Hào đã đi sâu nghiên cứu các khâu trồng, thu hái và chế biến, nghiên cứu các chế phẩm chống sâu bệnh cho cây TNHC, sử dụng kỹ thuật DNA để phân biệt các loài Crinum khác nhau.

Nhóm nghiên cứu của TS. Trần Thị Việt Hoa, bộ môn tổng hợp hữu cơ, khoa công nghệ hóa dầu, Đại học bách khoa TP.HCM đã đi sâu vào nghiên cứu thành phần hóa học và các phương pháp tách chiết và đã phát hiện trong lá cây TNHC có các alcaloid, carotenoid, saponin, acid uronic và coumarin.

Còn nhóm nghiên cứu của PGS. TS. Nguyễn Khắc Quỳnh Cứ và TS. Võ Thị Bạnh Huệ với phương pháp chiết xuất bằng cồn đã chiết tách được các alcaloid: augustamin, ambelin, crinamidin, 6-hydroxy crinamidin…

Như vậy là đã có nhiều cơ quan khoa học và các nhà nghiên cứu Việt Nam tập trung nghiên cứu về nhiều khía cạnh của cây TNHC.

Nghiên cứu của TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm, Công ty cổ phần dược liệu trung ương 2 là một nghiên cứu khá đầy đủ, kết quả cuối cùng là sản xuất một loại thuốc viên, qua các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, đã được hội đồng khoa học đánh giá xuất sắc và cho lưu hành trên thị trường.

U xơ tuyến tiền liệt và trinh nữ hoàng cung

Bệnh u xơ tuyến tiền liệt hay còn gọi u phì đại lành tính tuyến tiền liệt là một căn bệnh đã được các nhà khoa học trên thế giới và trong nước quan tâm nghiên cứu. Cho đến nay cũng chỉ mới đưa ra được những giả thuyết vai trò của nội tiết, mối quan hệ tổ chức đệm với lớp biểu mô và các yếu tố phát triển. Sự biến đổi của hệ thống miễn dịch và viêm nhiễm tại chỗ...

Những nghiên cứu điều trị bệnh

Các nhà khoa học trên thế giới luôn cố gắng tìm nguyên nhân sinh bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt. Theo quan điểm của một số nhà khoa học, androgen và cụ thể hơn là testosteron có tác dụng gây cảm ứng và làm tiến triển u tuyến tiền liệt. Đã từ lâu, người ta thấy rằng, những người bị hoạn từ lúc còn bé không bao giờ bị ung thư tuyến tiền liệt.

Năm 1786, Hunter John đã điều trị ung thư tuyến tiền liệt có kết quả bằng cách cắt bỏ tinh hoàn. Năm 1941 Huggins đã đề xuất phương pháp điều trị ung thư tuyến tiền liệt bằng cách cắt bỏ tinh hoàn hoặc dùng một hormon kháng androgen là estrogen. Với công trình này, tác giả đã đoạt giải thưởng Nobel năm 1966.

Cắt bỏ cả hai bên tinh hoàn làm cho nồng độ testosteron trong huyết tương giảm từ 500 mg/100 ml xuống còn 50 mg/100 ml, tức là giảm đi 90%. Nồng độ testosteron thấp không đủ làm phát sinh và phát triển ung thư tuyến tiền liệt. Vì thế người ta cũng nghĩ đến phương pháp dùng anti – androgen để điều trị ung thư tuyến tiền liệt và cũng thu được kết quả như đã dùng diethylstillboestrol (một loại estrogen tổng hợp) hoặc polyestradiol. Liều dùng chỉ nên l - 2 mg/ngày. Dùng  liều cao có thể gây ra tai biến tim mạch, dễ dẫn đến tử vong. Cũng có thể dùng thuốc ức chế quá trình tổng hợp testosteron như aminoglutethimid, ketoconazol; hoặc thuốc cạnh tranh với testosteron ở thụ thể như cyproteron acetat, nilutamid. Trước khi Huggins nhận được giải Nobel, trong những năm 1959 - 1962, Dorfman đã có nghiên cứu thấy sự phát triển u tuyến tiền liệt phụ thuộc vào nồng độ testosteron ở chuột cống trắng. Thực tế u phì đại tuyến tiền liệt thường thấy xuất hiện và phát triển ở những người cao tuổi, nên sự thay đổi nội tiết ở tuổi già được coi là có vai trò quan trọng.

Testosteron được coi là yếu tố quyết định. Testosteron là sản phẩm chủ yếu của tế bào leydig trong tinh hoàn. Người ta biết testosteron tự do không gây u phì đại tuyến tiền liệt, nhưng dưới tác dụng của 5?-reductase, sẽ chuyển hóa thành dihydrotestosteron (DHT), một chất chuyển hóa hoạt tính gắn vào các thụ thể trong tế bào tuyến tiền liệt làm phân chia nhân tế bào, làm tăng sinh và u phì đại tuyến tiền liệt.

Trên thực tế Siteri và Wilson (1970) thấy nồng độ DHT trong u phì đại tuyến tiền liệt cao hơn 3 - 4 lần nồng độ DHT trong mô tuyến tiền liệt bình thường.

Walsh (1984) thấy tỷ lệ các thụ thể DHT trong u xơ bao giờ cũng cao hơn ở mô tuyến tiền liệt bình thường. Điều đó cho thấy DHT có ý nghĩa quan trọng trong hình thành u phì đại tuyến tiền liệt. Ngoài testosteron còn có oestrogen cùng với testosteron kích thích sự phát triển của tuyến tiền liệt. Thành phần quan trọng của oestrogen là oestradiol.  Trái với quan niệm trước đó, oestrogen không ức chế sự phát triển  của tuyến tiền liệt mà còn cùng với androgen, do oestrogen, còn làm tỷ lệ các thụ cảm androgen. Walsh và Wilson dùng oestradiol và DHT tiêm cho chó bị thiến, đã gây u phì đại tuyến tiền liệt.

Ngoài hai loại hormon chính như đã nói ở trên, người ta cũng quan sát thấy vai trò kết hợp của androgen thượng thận và prolactin trong sự phát triển của tuyến tiền liệt.

Vai trò của các yếu tố tăng trưởng trong sự phát triển của u phì đại lành tính tuyến tiền liệt được phát hiện bởi Chen và Lawson. Yếu tố này được phóng thích ra từ tế bào biểu mô màng đáy do các chấn thương nhỏ của mô niệu đạo và tuyến tiền liệt quanh niệâu đạo như đi tiểu, xuất tinh hay viêm nhiễm mãn tính.

Theo R. Lawson, những người có u phì đại lành tính tuyến tiền liệt có tỷ lệ các yếu tố tăng trưởng đặc biệt là bFGF (basic fibroblas growth factor) và TGFb (transforming growth factor) cao hơn người bình thường và tập trung nhiều ở vùng quanh niệu đạo tuyến tiền liệt phần trên u núi. Trong các yếu tố đó chính bFGF là yếu tố quan trọng, nó làm phát triển các tế bào xơ non, hình thành nhân xơ - các nhân xơ phát triển lớn dần tạo thành các khối u xơ tuyến tiền liệt.

Mặc dù có nhiều giả thuyết về sự hình thành của u phì đại tuyến tiền liệt, song người ta cho rằng muốn hình thành được u phì đại tuyến tiền liệt phải có những yếu tố sau:

- Tinh hoàn phải có chức năng.

- Người trên 45 tuổi.

- Có sự tham gia của các yếu tố tăng trưởng.

Để điều trị u phì đại lành tính tuyến tiền liệt, hiện nay trong nước và trên thế giới đã và đang sử dụng hai phương pháp: điều trị ngoại khoa và điều trị nội khoa.

Phương pháp điều trị ngoại khoa: cắt u nội soi và mổ bóc tách u phì đại lành tính tuyến tiền liệt đường trên. Phương pháp này có chi phí cao và sau mổ có thể xảy ra biến chứng, cho nên không thuận lợi cho những người trẻ tuổi.

Phương pháp điều trị nội khoa: điều trị dùng thuốc. Phương pháp này thuận lợi cho những bệnh nhân có u xơ tuyến tiền liệt kèm theo bệnh khác như: tim mạch, huyết áp, tiểu đường. Các thuốc thường được dùng để điều chỉnh các rối loạn tiểu tiện do sự phì đại của u xơ, do trương lực cơ trơn ở tuyến tiền liệt và niệu đạo gây nên.

Điều trị bằng các hormon: các chất tương tự GnRH: ức chế tinh hoàn tiết ra testosteron làm nồng độ testosteron trong huyết thanh giảm, làm kích thước nhỏ hơn và lưu lượng nước tiểu tối đa tăng.

Các thuốc kháng androgen:

+ Acetat cyproteron: tác dụng tương tự progesteron chống sản xuất androgen.

+ Flutamid: kháng androgen đơn thuần không thuộc nhóm steroid.

+ Casodex.

Thuốc ức chế 5?-reductase làm testosteron không chuyển hóa thành dihydrotestosteron. Đại diện là finasterid (Proscar) làm giảm các triệu chứng bệnh u phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng cách hoàn toàn khác. Thay vì làm giảm cơ chậu, thuốc thu nhỏ tuyến tiền liệt. Đối với một số người có tuyến tiền liệt lớn, thuốc finasterid có thể cải thiện triệu chứng đáng kể. Dù vậy, thuốc thường không có hiệu quả nếu bệnh nhân có tuyến tiền liệt bình thường hay u phì đại vừa phải. Finasterid tác dụng chậm. Sau 3 tháng mới có sự cải thiện về dòng nước tiểu và thường cần đến một năm mới có kết quả đầy đủ. Một số ít người dùng finasterid bị bất lực, giảm dục năng và giảm lượng tinh dịch phóng ra khi xuất tinh. Nhưng ở đa số người thì finasterid chỉ gây tác dụng phụ nhẹ. Finasterid có hai nhược điểm khác. Finasterid đắt hơn thuốc phong bế alpha và nó hạ thấp mức PSA. Điều này có thể ảnh hưởng đến xét nghiệm PSA phát hiện ung thư tuyến tiền liệt.

Kháng oestrogen: có tác dụng tranh chấp với các thụ thể androgen ở tế bào đích: tamoximen (TMA), ketokonazol...

Thuốc phong bế alpha giao cảm: cổ bàng quang và niệu đạo vùng tuyến tiền liệt có nhiều thụ thể ??- adrenergic. Vì vậy các thuốc ??- adrenergic có tác dụng làm giãn cơ trơn vùng này, làm dễ bài niệu. Thường dùng các chất phong bế alpha có tác dụng chọn lọc các thụ thể ??1 sau synapse gồm có: terazosin (Hytrin), doxazosin (Cardura), tamsulosin (Flomax), prazosin, alfurrosin. Thuốc phong bế alpha có hiệu quả đối với khoảng 75% người sử dụng. Thuốc tác dụng nhanh, trong vòng 1 đến 2 ngày số bệnh nhân nhận thấy tăng lượng nước tiểu và giảm nhu cầu tiểu tiện. Tác dụng phụ có thể là đau đầu hoặc chóng mặt, choáng váng hoặc mệt, ảnh hưởng đến quan hệ tình dục.

Thuốc có nguồn gốc thiên nhiên:

- Tadenan 50 mg, viên nang mềm, được chế từ vỏ cây Pygeum africanum (một loại mận châu Phi).

- Permixon từ quả cây Serenoa repens.

Các thuốc trên có tác dụng chống viêm, lợi tiểu và không có tác dụng phụ vì được sản xuất từ thảo dược.

Để đóng góp thêm vào kho tàng thuốc của thị trường dược phẩm thế giới, các nhà hóa học và dược học đã tiếp tục tìm thêm từ dược liệu những sản phẩm thuốc mới có nhiều ưu điểm như: giảm kích thước u xơ, cải thiện tiểu tiện và không có tác dụng phụ như những loại thuốc đang được lưu hành trên thị trường. Cũng vì vậy, cây trinh nữ hoàng cung có ở Việt Nam đã và đang được nghiên cứu.

- Ghosal (1983), Ấn Độ, đã tìm ra từ củ của cây TNHC chất pratorimin có tác dụng kháng ung bướu (antitumor). Cũng xin nói thêm, S. Kobayashi - 1984, Nhật Bản, tìm được hoạt chất crinamin từ củ của cây TNHC, có tác dụng chống bệnh sốt rét (antimalarial). S. Kobayashi cũng tìm được chất hamayne (bulbispermin) từ củ cây TNHC có tác dụng kháng khuẩn (antibacterial).

- Ghosal (1986), Ấn Độ đã tìm ra trong hoa của cây TNHC có hai hoạt chất crinafolidin và crinafolin, hai chất này có tác dụng kháng ung bướu (antitumor).

Nghiên cứu trong nước

Ở Việt Nam đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu về căn bệnh này. Theo các tác giả trên, việc điều trị nội khoa có nhiều ưu điểm thuận lợi cho người bệnh vì phương pháp điều trị ngoại khoa có nhiều nhược điểm. Nếu bệnh nhân bị phì đại lành tính tuyến tiền liệt kết hợp với một số bệnh khác, hay tình trạng bệnh nhân quá nặng, có thể có nhiều rối loạn chức năng sau mổ, nhất là ở những người trẻ tuổi, do đó phần lớn bệnh nhân đều muốn tìm đến phương pháp điều trị nội khoa.

Để có thuốc điều trị hiệu quả cao và khắc phục được nhược điểm của những biệt dược đang có trên thị trường, như đau đầu, chóng mặt, choáng váng và ảnh hưởng đến quan hệ tình dục, trong những năm gần dây, ở Việt Nam đã có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu từ dược liệu và đặc biệt đáng quan tâm trong số đó là cây TNHC, nhằm tìm được những hoạt chất có tác dụng sinh học kháng ung bướu, để có nguyên liệu sản xuất thuốc.

Chúng tôi đã xác định được cách trồng trọt, loại đất trồng, xử lý sâu bệnh, tuổi của cây và thời điểm thu hái để nguyên liệu có tác dụng sinh học điều trị ung bướu. Bên cạnh đó là chứng minh trong dịch chiết bằng nước nóng từ lá cây TNHC có chứa những yếu tố hoạt hóa tế bào lympho T, làm cho tế bào lympho T phát triển và hoạt động.

Các tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trâm, I. Yanchev, E. Zvetkova đã tiến hành thử nghiệm gây ung thư trên chuột đực giống Wistar từ 50 đến 55 ngày tuổi, bằng cách cấy dưới da chất hóa học gây ung thư 20-methylcholanthren, tiến hành thí nghiệm cho uống những chất chiết bằng nước nóng của cây TNHC. Kết quả cho thấy, những chất này đã làm chậm sự tăng trưởng khối u của chuột thí nghiệm. Tác giả còn chứng minh thêm được 4 phân đoạn alcaloid có tác dụng gây độc tế bào ung thư da, ung thư màng tử cung, ung thư cơ tim có kết quả dương tính mạnh.

Để có thuốc hỗ trợ cho điều trị u xơ tuyến tiền liệt và tránh nhầm lẫn cây TNHC với các cây náng khác có ở Việt Nam, Công ty dược liệu trung ương 2 đã sản xuất trà túi lọc trinh nữ hoàng cung từ năm 1998. Năm 2001, tại Bệnh viện Hữu Nghị, BS. Nguyễn Xuân Hướng đã sử dụng nước sắc lá TNHC của Công ty dược liệu trung ương 2 cung cấp để điều trị u xơ tuyến tiền liệt cho các bệnh nhân, hiệu quả 92,68%.

 

Kỳ sau: Tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư của trinh nữ hoàng cung

TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm
 

Chuyên đê trinh nữ hoàng cung 

Bài 3: Tác dụng hỗ trợ điều trị ung thư của trinh nữ hoàng cung

Chủ nhật, 19/09/2010, 08:44 GMT+7

 
 

Cây trinh nữ hoàng cung (TNHC) (Crinum latifolium L.) đã được nhân dân sử dụng để điều trị u xơ tuyến tiền liệt (phì đại lành tính tuyến tiền liệt) và u xơ tử cung, ngoài ra có người còn sử dụng để điều trị bệnh ung thư như ung thư vú, tử cung, dạ dày, phổi và tuyến tiền liệt. Trong những năm qua đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về cây thuốc quý hiếm này.

Yui và cộng sự đã chứng minh alcaloid lycorin, hoạt chất chính từ TNHC có tác dụng kích thích tế bào lympho T trong ống nghiệm và trên sinh vật hoạt động và phát triển. Các tác giả Nguyễn Thị Ngọc Trâm, E. Zvetkova và cộng sự cũng đã chứng minh dịch chiết nước nóng từ lá cây TNHC Việt Nam có thể kích thích hữu hiệu sự sinh sản của tế bào lympho T và đặc biệt có tác dụng kích thích trực tiếp lên các tế bào TCD3, TCD4 invitro. Nguyễn Thị Ngọc Trâm, I. Yanchev và cộng sự cũng đã tiến hành thử nghiệm gây ung thư trên chuột đực Wistar 50 - 55 ngày tuổi, bằng cách cấy dưới da chất hóa học gây ung thư 20- methylcholantren và tiến hành thí nghiệm cho uống những chất chiết bằng nước nóng của cây TNHC. Kết quả cho thấy dịch chiết này đã làm chậm sự tăng trưởng khối u thực nghiệm. Ở Ấn Độ, tác giả Ghosal khẳng định một số alcaloid từ TNHC như crinafolin, crinafolidin đã được thử nghiệm với tế bào ung thư và cho kết quả dương tính.

Để chứng minh tác dụng của viên Crila, một loại thuốc được chiết xuất từ lá cây TNHC (đã được dùng trên bệnh nhân u xơ tuyến tiền liệt và u xơ tử cung) có hỗ trợ điều trị ung thư (tác dụng tăng miễn dịch (MD) trên thực nghiệm, khả năng chữa tình trạng suy tủy xương của bệnh phóng xạ cấp, bán cấp và có thể loại bỏ được tác dụng phụ nặng nề của hóa trị liệu) hay không, chúng tôi đã tiến hành: dùng mô hình chiếu tia xạ bán cấp cho chuột nhắt để gây suy giảm dòng tế bào tủy và dòng tế bào lympho rồi điều trị với viên Crila, sau đó đánh giá khả năng hồi phục dòng tế bào lympho T (cả về số lượng và chức năng tiết hai CK (dịch tiết từ tế bào) chủ yếu của MD chống ung thư: lL-2 và lFN?), và khả năng hồi phục dòng tế bào tủy của những chuột bị chiếu tia gamma này.

Thuốc dùng trong nghiên cứu này là viên nang Crila 250 mg của Công ty cổ phần dược liệu trung ương 2, được bào chế từ những alcaloid có hoạt tính sinh học điều trị u xơ tuyến tiền liệt (phì đại lành tính tuyến tiền liệt) đang được lưu hành trên toàn quốc với số đăng ký VNB-3391-05. Liều sử dụng cho chuột thí nghiệm là 1.250 mg/kg cân nặng/ ngày, gấp 30 lần liều sử dụng cho người.

Thuốc được sử dụng trong 6 ngày song song với 6 ngày chiếu tia xạ, cho uống thuốc 1 lần trong ngày sau khi chiếu xạ. Giết chuột ở ngày thứ 7 để làm các xét nghiệm đánh giá số lượng và chức năng tế bào MD, đồng thời đánh giá số lượng một số tế bào dòng tủy chủ yếu.

Tác dụng của thuốc trên tế bào dòng lympho

Sự giảm sút nặng nề của dòng tủy và dòng lympho xảy ra ở chuột nhắt chiếu tia cấp, bán cấp là các biến đổi đã được các nhà nghiên cứu y học và thực hành lâm sàng khẳng định. Kết quả thu được của chúng tôi phù hợp với các tác giả đã công bố trước đây. Khi nhận định bằng hình thái học, chủ yếu dựa vào kích thước tế bào thì không phát hiện được sự thay đổi của bạch cầu ái toan và nhất là bạch cầu diệt tự nhiên (NK - natural killer), nhưng khi sự nhận dạng được dựa trên dấu ấn MD (kháng nguyên CD16+/ 56+ của NK) rõ ràng, chính xác thì tia gamma đã làm NK giảm sút đặc biệt có ý nghĩa, cả trong máu ngoại vi và trong lách, với p đều dưới 0,001.

Các tế bào NK được phát hiện vào những năm 1980, khi người ta thấy máu có khả năng gây độc với virus, với các tế bào máu gốc và tế bào ung thư. Dưới tác dụng của tế bào NK, các tế bào ung thư máu, myeloma, carcinoma, sarcoma, melanoma của người bị dung giải hay ức chế. Các chuột Beige có hoạt tính NK kém, rất nhạy cảm với bệnh ung thư máu. NK được chính thức xem như một quần thể chống ung thư mạnh của MD bẩm sinh không đặc hiệu vì không cần mẫn cảm trước với kháng nguyên.

Chuột chiếu tia, uống viên Crila làm số lượng NK hồi phục về trị số sinh học. Các tế bào TCD4, TCD8 là các quần thể gây độc với virus và với ung thư, thông qua 2 CK quan trọng nhất là lL-2 và TNF??hay là trực tiếp gây dung giải tế bào ung thư và tế bào nhiễm virus.

Liều tia xạ đã sử dụng trong thực nghiệm đã gây giảm có ý nghĩa đặc biệt toàn bộ các nhóm tế bào lympho, đặc biệt dòng T và NK. Số lượng cả hai loại TCD8a (CD8?/?) và TCD8b (CD8?/?) đều giảm mạnh ở cả lách và máu ngoại vi. TCD8b là quần thể chủ yếu, chiếm đa số các tế bào tuyến ức chín và tế bào T chín ở máu ngoại vi, được giới hạn trong MHC lớp 1, có thể đại diện cho TCD8. TCD8a là quần thể TCD8 chín chiếm tỷ lệ rất thấp.

Tế bào TCD8 là tế bào gây độc đặc hiệu chính với tế bào ung thư. Ở đây, tia gamma không những gây giảm có ý nghĩa số lượng tế bào của những quần thể này mà chức năng của chúng cũng giảm mạnh, thể hiện bằng giảm lL2. Do TNF??có nhiều nguồn gốc hơn (đại thực bào, tế bào Mast, tế bào lympho) nên hàm lượng của nó vẫn duy trì được.

Khi được điều trị bằng Crila, các quần thể tế bào lympho CD3, CD4, CD8??và CD8b (kể cả NK) ở máu ngoại vi và ở lách được phục hồi cả số lượng, tỷ lệ % và cả chức năng chế tiết lL-2 về gần trị số sinh học. lL-2 có tác dụng làm tăng sinh và tăng biệt hóa tế bào lympho T, hoạt hóa các Tc (T cytotoxic) và hoạt hóa đại thực bào, có vai trò rất quan trọng trong MD chống ung thư.

Hàm lượng TNF??được đảm bảo bằng nhiều nguồn. TNF??có tác dụng hoạt hóa các đại thực bào, bạch cầu hạt và các tế bào gây độc, tăng cường sự dính của bạch cầu với tế bào nội mạc, gây gầy mòn, sốt, cảm ứng sự tiết protein pha cấp, kích thích sự tạo mạch máu, tăng cường sản xuất các phân tử MHC lớp 1. Tác dụng của TNF??vì thế có trên một phổ rộng hơn, trong đó có cả tác dụng gây độc tế bào ung thư, tăng các phân tử MHC lớp 1 cho tế bào Tc hoạt động, nhằm tiêu diệt các tế bào ung thư.

Khi dùng Crila để điều trị cho chuột chiếu tia thì các tế bào đều có xu hướng gây tăng chế tiết, đưa về trị số sinh học hay cao hơn, của cả hai CK nghiên cứu là TNF??và IL-2.

Các cây thuốc điều biến MD khác đã được các tác giả Việt Nam nghiên cứu hầu như chưa khảo sát chức năng tế bào MD, mà mới nghiên cứu sự biến đổi số lượng tế bào MD, trừ cây nhàu, nhưng cũng chỉ khảo sát chức năng chế tiết lL-2 in vitro. Đối với viên Crila - TNHC thì Nguyễn Thị Ngọc Trâm đã nghiên cứu một cách có hệ thống và đầy đủ. Thành phần hóa học có hoạt tính sinh học được tác giả tập trung chủ yếu vào 4 phân đoạn alcaloid và các flavonoid với các tác dụng sinh học đã giới thiệu ở trên, như tăng MD, độc với tế bào ung thư da thực nghiệm bằng 20 - methylcholantren. Trong nghiên cứu bổ sung lần này đã chứng minh viên Crila từ TNHC có tăng số lượng và tỷ lệ % tế bào MD máu ngoại vi và lách có mang các dấu ấn CD3, CD4, CD8a, CD8b, CD16/56 và tăng khả năng chế tiết lL2 và TNF??của các loại tế bào đơn nhân phân lập ở lách nuôi cấy ngắn ngày (48 giờ) có kích thích bằng PHA.

Lugan và cộng sự (2003) cũng thấy phức hợp polysaccharid-protein của TNHC tăng cường sự chế tiết lL2 và TNF??ở cả mức độ gen (MRNA) và protein (cytokin) của tế bào MD phân lập từ bệnh nhân ung thư. Siheeja K. và cộng sự (2007) thấy andrographis paniculata và andrographolide làm tăng CTL (cytotoxic T lympho - cyte), tăng sản xuất lL2, TNF??của tế bào T và tăng thời gian sống thêm của chuột mang khối u tuyến ức EL4.

Hy vọng về khả năng tăng cường MD chống ung thư của viên Crila là có cơ sở: các tế bào T lympho tăng cao về số lượng, tỷ lệ ở máu và ở lách, tăng chế tiết đặc biệt lL2 và cả TNF?.

Mới đây, Amandeep Kaur và cộng sự (Ấn Độ, 2006) đã phân lập được một lectin mới từ TNHC, với sắc ký lọc gel P-200 thì lectin mới này có trọng lượng phân tử là 24 kDa và 1 băng peptid với trọng lượng phân tử 12kDa trên SDSPAGE, SDSPAGE, chứng  tỏ lectin này là một protein dimmer có hai tiểu đơn vị giống nhau. Hoạt tính sinh học của lectin mới này chưa được nghiên cứu đầy đủ.

Tác dụng của viên Crila trên tế bào dòng tủy

Dựa trên kết quả nghiên cứu, có một số gợi ý về khả năng mở rộng diện sử dụng trong điều trị của Crila cho các bệnh phóng xạ cấp và bán cấp, hay các bệnh nhân suy tủy xương do hóa trị liệu ung thư.

Ngoài các tác dụng hồi phục cấu trúc, chức năng tế bào hệ MD như đã trình bày còn thấy các bạch cầu hạt, bạch cầu mono và ưa acid, những tế bào có nguồn gốc tủy xương đều có khả năng hồi phục lên bằng hay gần bằng trị số sinh học. Chỉ có mono là tuy có tăng cao nhưng còn thấp hơn trị số sinh học.

Cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn và đầy đủ hơn về cấu trúc và chức năng của các tế bào có nguồn gốc tủy dưới tác dụng của Crila để có thể mở rộng diện chỉ định điều trị, đặc biệt trong các bệnh phóng xạ cấp, bán cấp, loại bỏ tác dụng phụ của hóa trị liệu ung thư, điều trị các bệnh nhiễm trùng, nhiễm virus.

Như vậy, có thể kết luận: viên Crila sản xuất từ dịch chiết alcaloid toàn phần của lá cây TNHC, trên chuột bị chiếu tia gamma thực nghiệm, có các tác dụng sau đây: hồi phục, tăng sinh tế bào dòng lympho cả số lượng dòng T, NK và tăng chức năng chế tiết lL2, TNF?; có khả năng hồi phục bạch cầu hạt trung tính và bạch cầu ưa acid của dòng tủy về trị số sinh học.

Kỳ sau: Hỏi – đáp về cây trinh nữ hoàng cung.

TS.Nguyễn Thị Ngọc Trâm
 

Chuyên đề trinh nữ hoàng cung

Bài 4: Hỏi và đáp về trinh nữ hoàng cung

Thứ hai, 20/09/2010, 07:55 GMT+7

 
 

Trồng cây trinh nữ hoàng cung trong chậu có khác gì so với trồng ngoài đất?

Cây THNC trồng trong chậu không có hoạt chất điều trị bệnh ung bướu như cây TNHC trồng ngoài ruộng đồng.

Sử dụng trinh nữ hoàng cung như thế nào cho đúng?

Đối với u lành thì việc sử dụng lá TNHC để hỗ trợ điều trị rất tốt, nhưng phải uống đúng liều thì mới có tác dụng. Tôi hướng dẫn các bạn cách sử dụng như sau: nếu nhà có trồng cây TNHC (đúng là cây thật), có thể dùng 10 lá (khô)/ngày, cắt thành từng đoạn ngắn, sao khô, hạ thổ, sắc lấy nước uống. Cách sắc: đun sôi 3 chén ăn cơm nước, thả lá THNC (khô) vào, đậy nắp, đun trong 15 phút với lửa nhỏ, đến khi chỉ còn 1 chén, chia làm 3 lần uống trong ngày sau bữa ăn 1 tiếng đồng hồ, bã còn lại tiếp tục ngâm nước sôi uống thay nước trong ngày. Uống liên tục trong 63 ngày. Nếu trong nhà không có cây TNHC thì các bạn nên mua trà túi lọc TNHC của Trung tâm nghiên cứu phát triển sản xuất dược phẩm CRINA thuộc Công ty cổ phần dược liệu trung ương 2, dùng với liều 10 gói/ngày theo đúng hướng dẫn sử dụng trên bao bì.

Trinh nữ hoàng cung có chữa được ung thư dạ dày?

Bệnh nhân ung thư dạ dày đã được bệnh viện ung bướu xạ trị và hóa trị có thể kết hợp dùng lá cây TNHC nhằm tăng sức đề kháng của cơ thể, vì bản thân lá cây TNHC chiết xuất bằng nước nóng có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư, kích thích tế bào lympho T phát triển và hoạt động. Công trình này đã được nghiên cứu ở Viện hàn lâm Áo và Bungari, đã được công bố trên tạp chí Y học quốc tế.

Trinh nữ hoàng cung có chữa được viêm xoang?

Trong cây TNHC có chất kháng viêm nhưng cho đến nay chưa có nhà khoa học nào chứng minh (qua lâm sàng) về tác dụng này của cây TNHC chữa viêm xoang. TNHC chỉ chữa được bệnh u xơ tuyến tiền liệt và u xơ tử cung (đã qua thử nghiệm lâm sàng).

Uống trinh nữ hoàng cung để phòng chống ung thư có bị vô sinh?

Nếu cây mà các bạn trồng đúng là cây TNHC thì có thể sử dụng lá tươi để uống có tác dụng phòng chống ung thư theo kinh nghiệm dân gian. Lá cây TNHC không làm ảnh hưởng đến khả năng sinh sản. Có một loại cây náng khác cũng có tên là trinh nữ hoàng cung nhưng là loài của Campuchia, có nửa hoa màu trắng, có mùi thơm như hoa huệ - loại này mới gây vô sinh.

Cây TNHC mà chúng tôi nghiên cứu là loại cây Việt Nam có nửa hoa màu trắng có ánh tím. Nếu cần xác định rõ hơn, bạn có thể liên hệ trực tiếp với tôi.

Trinh nữ hoàng cung có chữa được sỏi thận?

TNHC không có tác dụng chữa trị bệnh sỏi thận và bệnh đái tháo đường. Những bệnh này phải khám và chẩn trị tại chuyên khoa tiết niệu.

Ung thư giai đoạn cuối có nên sử dụng?

Bệnh nhân đã ở giai đoạn cuối của bệnh ung thư, TNHC không có khả năng cứu chữa. Nếu bạn muốn sử dụng theo kiểu "còn nước còn tát", có thể dùng theo liều: 10 lá khô/ngày, đun sắc lấy nước uống. Nếu bạn không có lá TNHC, tôi có thể gửi cho bạn qua đường bưu điện, không nên dùng nếu không biết chắc có phải là lá TNHC hay không. Nếu bạn có nhu cầu, có thể liên hệ trực tiếp với tôi.

Có nên sử dụng lá TNHC để phòng bệnh u xơ tử cung?

Bạn có thể sử dụng lá TNHC để phòng ngừa bệnh u xơ tử cung, nhưng cây TNHC bán trên thị trường có thể không đúng vì trong họ cây náng lá rộng TNHC có 12 cây giống nhau, nếu cây chưa ra hoa thì rất khó phân biệt. Trường hợp uống nhầm cây huệ biển hoặc một số cây náng khác rất có thể bị ngộ độc, thực tế đã xảy ra những trường hợp này do mua lá TNHC trôi nổi trên thị trường. Theo tôi, bạn nên mua sản phẩm đã được nghiên cứu là viên nang Crilin là sản phẩm thực phẩm chức năng với liều phòng ngừa 4 viên/ngày, chia 2 lần, dùng liên tục trong 30 ngày, nghỉ 1 tháng, sau đó lại dùng tiếp. Bạn có thể dùng trong thời gian tiền mãn kinh rất tốt.

TNHC có chữa được cao huyết áp không? Bị u lành tính có dùng được không?

TNHC không chữa được bệnh huyết áp. Bạn có thể sử dụng trà túi lọc TNHC để hỗ trợ điều trị u gan lành tính với liều dùng 12 gói/ngày.

Xuất tinh sớm có nên dùng TNHC?

TNHC không có tác dụng điều trị bệnh xuất tinh sớm. Bạn cần phải được khám, điều trị tại chuyên khoa nam học ở các bệnh viện như Bệnh viện Việt Đức (Hà Nội) hoặc Bệnh viện Bình Dân (TP.HCM).

Mẹ tôi bị bệnh tiểu không kiểm soát, đã 2 năm, được phẫu thuật tại bệnh viện, phương pháp: treo bàng quang. Bệnh đã thuyên giảm, nhưng ban đêm, mẹ tôi vẫn tiểu ít mà không biết, có nên uống TNHC hay không?

TNHC có khả năng ức chế sự phát triển của tế bào u, do đó bạn có thể sử dụng lá TNHC hoặc trà túi lọc TNHC để hỗ trợ điều trị u lành.

Bị ung thư cổ tử cung thời kỳ thứ nhất mà đã cắt bỏ thì sử dụng thuốc từ TNHC có thể khỏi hoàn toàn không?

Bạn có thể yên tâm sau những chữa trị vì đã phát hiện được bệnh sớm. Để cho bệnh không phát triển lại hay di căn, tôi khuyên bạn: nên uống lá TNHC hoặc trà túi lọc TNHC với liều cao (15 lá/ngày, chia 3 lần sắc uống hoặc 15 gói/ngày, chia 3 lần, uống như uống trà theo hướng dẫn sử dụng trên bao bì) hoặc bạn có thể uống viên nang Crilin.

Vì trên thị trường có rất nhiều cây TNHC nên tốt nhất bạn nên dùng đúng sản phẩm của Trung tâm nghiên cứu phát triển sản xuất dược phẩm CRINA thuộc Công ty cổ phần dược liệu trung ương 2 sản xuất, là sản phẩm từ công trình nghiên cứu của tôi.

Bạn nên uống liên tục trong thời gian 5 năm. Nếu điều kiện kinh tế không cho phép, bạn có thể liên hệ trực tiếp với tôi để được hỗ trợ.

 

Kỳ tới: Những lưu ý khi sử dụng trinh nữ hoàng cung làm thuốc

TS.Nguyễn Thị Ngọc Trâm
 

Chuyên đề trinh nữ hoàng cung

Bài 5: Lưu ý khi sử dụng thuốc làm từ trinh nữ hoàng cung

Thứ năm, 23/09/2010, 08:36 GMT+7

 
 

TNHC là một cây thuốc quý đã được các ngự y dùng trong cung đình từ lâu. Từ năm 1990, chúng tôi bắt đầu nghiên cứu cây thuốc này, nhưng cho đến nay, sau 15 năm, viên thuốc Crila ra đời cũng mới sử dụng đến bộ phận lá của cây TNHC. Củ và hoa của cây TNHC còn rất nhiều hợp chất kháng ung bướu, ức chế tế bào u. Thời gian tới chúng tôi sẽ công bố kết quả về công trình nghiên cứu trên hoa và củ của cây TNHC.

Trinh nữ hoàng cung có khả năng điều trị bệnh phì đại tuyến tiền liệt, sản phẩm Crila được chiết xuất từ lá cây TNHC đã được chứng minh có khả năng điều trị bệnh phì đại lành tính tuyến tiền liệt hay còn gọi là u xơ tuyến tiền liệt. Hội đồng khoa học nghiên cứu cấp bộ đã đánh giá viên nang Crila đạt hiệu quả 89,18%. Loại thuốc này còn được sử dụng trong điều trị u xơ tử cung, đã được nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng tại Bệnh viện phụ sản trung ương, kết quả đạt gần 79,5%. Viên nang Crila còn có tác dụng hỗ trợ điều trị cho các bệnh nhân ung thư, hỗ trợ điều trị kích thích hệ miễn dịch, tăng sức đề kháng cơ thể để chống lại sự sản sinh của tế bào ung thư và di căn sau khi phẫu thuật. Về tác dụng trong điều trị bệnh ung thư còn tiếp tục nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng tại các bệnh viện ung bướu, sẽ thông tin đến bạn đọc sau khi có kết quả nghiệm thu chính thức.

Viên nang Crila được chiết xuất từ cây TNHC đã được thử nghiệm lâm sàng trên người với số bệnh nhân là 357. Sản phẩm đã được lưu hành trong bệnh viện từ tháng 7/2004 - 7/2005. Từ tháng 8/2005 được cơ quan chức năng cấp phép lưu hành trên toàn quốc.

Khi sử dụng viên nang Crila để điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt, kết quả cho thấy kích thước tuyến tiền liệt có thể trở lại kích thước ban đầu. Thực tế đã có hàng ngàn bệnh nhân không phải phẫu thuật mà kích thước tuyến tiền liệt trở lại bình thường. Bạn đọc có thể liên hệ trực tiếp với tôi để biết địa chỉ của các bệnh nhân đã được điều trị khỏi bằng phương pháp này.

Sản phẩm lưu hành trên thị trường là trà TNHC và viên nang Crilin, do Trung tâm nghiên cứu phát triển sản xuất dược phẩm CRINA thuộc Công ty cổ phần dược liệu trung ương 2 sản xuất, có thể sử dụng hỗ trợ cho các bệnh nhân ung thư để ngăn chặn sự phân chia của tế bào ung thư và tránh di căn sau phẫu thuật khối u.

Về tác dụng của TNHC để điều trị các bệnh ung bướu khác, thực tế trong dân gian đã sử dụng kinh nghiệm của ngự y để điều trị ung dục. Để có căn cứ khoa học, chúng tôi đã nghiên cứu tại Bệnh viện Việt Đức, do GS.TS. Trần Quán Anh thực hiện đề tài này. Tập thể các nhà khoa học tham gia đề tài đã kết luận như sau: "Viên nang Crila không gây ảnh hưởng xấu đến đời sống hoạt động tình dục của bệnh nhân, đạt tỷ lệ 100%; sau hai tháng điều trị, thuốc không gây tác dụng phụ nào trên bệnh nhân, đạt kết quả 100% bình thường".

Dùng Crila điều trị kết hợp với các thuốc khác có được không?

Viên nang Crila có thể được sử dụng kết hợp với các loại thuốc khác, nhưng về nguyên tắc, các loại thuốc khác phải được uống cách thời điểm sử dụng viên Crila tối thiểu là 5 tiếng đồng hồ. Ví dụ, nếu người mắc bệnh huyết áp – tim mạch buộc phải uống thuốc ngày 2 lần vào buổi sáng và buổi chiều thì viên Crila sẽ uống như sau: sau ăn trưa nửa tiếng uống 4 viên và sau bữa ăn chiều khoảng 20 giờ uống 4 viên.

Trường hợp điều trị khỏi thì có phải uống tiếp không? Nếu có thì sử dụng trong bao lâu?

Trường hợp đã điều trị khỏi u xơ tuyến tiền liệt và u xơ tử cung bằng viên Crila, cần phải tiếp tục uống tiếp ngày 4 viên/2 lần để ngăn chặn sự tái phát của khối u và để cơ thể có sức đề kháng quen với sự phản ứng của các tế bào lạ trong cơ thể. Thời gian uống là 30 ngày, sau đó có thể tiếp tục uống trà TNHC ngày 3 gói trong thời gian 1 năm.

Trà túi lọc TNHC sử dụng cho người bình thường có được không? Dùng nó để uống phòng ngừa các bệnh ung bướu có được không?

Sản phẩm trà túi lọc TNHC do Trung tâm nghiên cứu phát triển sản xuất dược phẩm CRINA thuộc Công ty cổ phần dược liệu trung ương 2 sản xuất là sản phẩm được điều chế từ dược liệu sạch, an toàn cho người sử dụng và rất tốt cho bệnh nhân đang điều trị bệnh ung thư. Những người bình thường không có bệnh cũng có thể sử dụng để phòng ngừa bệnh tuyến tiền liệt và các bệnh khối u khác.

Sử dụng thuốc đối với phụ nữ có thai và trẻ em

Đối với phụ nữ có thai và trẻ em, không được sử dụng TNHC và viên Crila vì sản phẩm này chưa được nghiên cứu trên các đối tượng này.

Thuốc có hiệu quả đối với bệnh ung thư tuyến tiền liệt?

Sản phẩm được chế từ cây TNHC, là viên nang Crila, mới được nghiên cứu trên bệnh nhân có u phì đại tuyến tiền liệt lành tính, chưa được nghiên cứu trên bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt. Nhưng trong thực tế, đã có một số bệnh nhân ung thư tuyến tiền liệt sau khi dùng sản phẩm viên nang Crila, đã có chỉ số PSA cao từ 34 giảm xuống còn 17, tiếp tục giảm xuống còn 10 và tiến triển của khối u ác tính chậm lại, như trường hợp GS. Trương Mộc Lợi ở Trường đại học y dược TP.HCM, ông Nguyễn Văn Ba ở Gò Vấp. Do đó, bạn có thể sử dụng viên nang Crilin với liều dùng 10 viên/ngày hoặc trà túi lọc TNHC 10 gói/ngày.

Đối với người đã phẫu thuật cắt bỏ khối u Với người đã qua phẫu thuật để cắt bỏ khối u tuyến tiền liệt có thể tiếp tục uống viên nang Crila với liều dùng 4 viên/ngày chia 2 lần, vì ở các bệnh nhân phẫu thuật tuyến tiền liệt sau một thời gian có khả năng khối u phát triển lại.

U nang tuyến vú và bướu tuyến giáp

TNHC có khả năng hỗ trợ điều trị u nang tuyến vú. Đây chỉ là kinh nghiệm dân gian. Viên nang Crila chưa được nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng ở bệnh nhân u nang tuyến vú và bướu tuyến giáp. Để hỗ trợ điều trị cho bệnh u nang tuyến vú và u bướu tuyến giáp, bạn có thể dùng sản phẩm Crilin và trà trinh nữ hoàng cung.

Ung thư cổ tử cung

Viên nang Crila chưa được nghiên cứu trong điều trị ung thư cổ tử cung.

Điều trị u xơ tử cung

Viên nang Crila được thử nghiệm lâm sàng điều trị u xơ tử cung tại Bệnh viện phụ sản trung ương và Bệnh viện phụ sản Từ Dũ, Bệnh viện y học cổ truyền TP.HCM đạt kết quả 79,5%. Bệnh nhân có thể sử dụng viên Crila để điều trị u xơ tử cung với liều dùng 10 viên/ngày chia 2 lần uống sau bữa ăn 30 phút. Sau khi sử dụng thuốc này trong 60 ngày, bạn đi siêu âm lại để thấy kích thước khối u đã giảm bao nhiêu, sau đó liên lạc với tôi để được hướng dẫn tiếp, có thể phải nâng liều điều trị để kích thước khối u giảm nhanh hơn. Nhiều trường hợp không nhất thiết phải mổ vì điều trị bằng phương pháp ngoại khoa (phẫu thuật) rất hạn chế, sau phẫu thuật có thể kèm theo một số tai biến. Nếu dùng thuốc mà không tiêu được khối u thì mới phải phẫu thuật. Nhưng với kích thước khoảng 5 cm, thực tế nhiều bệnh nhân điều trị bằng viên Crila đạt kết quả tốt. Chỉ những bệnh nhân có khối u lớn hơn 10 cm mới cần điều trị phương pháp ngoại khoa.

Tác dụng của trà túi lọc TNHC

Trà túi lọc TNHC với liều dùng 10 gói/ngày, duy trì liên tục trong nhiều năm để tăng sức đề kháng của cơ thể, kích thích tế bào lympho T hoạt động và phát triển chống lại tế bào ung thư.

Với những bệnh nhân đã phẫu thuật, TNHC có tác dụng kéo dài thời gian sống và hạn chế sự di căn.

Đối với bệnh u nang buồng trứng

Trên thực tế, do hiểu được tác dụng của TNHC, một số bệnh nhân u nang buồng trứng đã dùng viên nang Crila và trà trinh nữ hoàng cung và kết quả u nang lành tính đã bị teo dần, có một số bệnh nhân khi siêu âm lại thì khối nang đã mất..

 

Kỳ sau: Con đường đến với trinh nữ hoàng cung

TS.Nguyễn Thị Ngọc Trâm
 

Chuyên đề trinh nữ hoàng cung

Bài 6: Con đường đến với trinh nữ hoàng cung

Thứ ba, 28/09/2010, 10:56 GMT+7

Thuở nhỏ tôi rất thích trồng cây hoa và sưu tầm nhiều loại cây cho vào lon sữa bò, mang vào trong vườn để trồng. Như một định mệnh, cuộc đời và sự nghiệp của tôi luôn luôn gắn bó với cỏ cây. Năm 1984, tôi trúng tuyển kỳ thi tuyển chọn nghiên cứu sinh toàn quốc và được nhà nước cử đi nghiên cứu sinh ở Bulgari năm 1985.

Ở Bulgari tôi đã nghiên cứu về thành phần hóa học của tinh dầu thảo quả Việt Nam, tôi rất mong muốn Việt Nam sẽ có một viên thuốc tham gia vào thị trường dược phẩm thế giới được sản xuất từ dược thảo Việt Nam. Điều đấy chính là động lực thôi thúc tôi trở về Việt Nam sau khi bảo vệ thành công luận án tiến sĩ ở Bulgari. Công trình đầu tay thành công là nghiên cứu chiết xuất tinh dầu cây húng chanh nhằm sản xuất thuốc ho cho trẻ em. Hành trình tìm kiếm miệt mài các dược liệu có nguồn gốc từ thiên nhiên đã đem đến cho tôi cơ hội tiếp xúc với những bài thuốc trong dân gian. Một trong những cơ hội quyết định và tạo ra bước ngoặt lớn trong cuộc đời nghiên cứu là năm 1990, tôi gặp được một cây thuốc mang tên trinh nữ hoàng cung và những giai thoại về nó. Đó là một cây thuốc lưu truyền trong dân gian mà tài liệu nghiên cứu còn quá mơ hồ. Tôi lao vào nghiên cứu cây thuốc có cái tên tuyệt đẹp này với sự say đắm hiếm có.

Trong thời gian tôi là cộng tác viên của Viện hàn lâm khoa học Bulgari, trong phòng thí nghiệm, qua kính hiển vi, tôi và cộng sự đã vui mừng khi nhìn thấy sự phát triển mạnh mẽ của tế bào lympho T, chúng hoạt động và phát triển thành từng đám sau khi động vật thí nghiệm được uống dịch chiết từ cây trinh nữ hoàng cung.

Nhưng dấu ấn đánh dấu thành công đầu tiên khi nghiên cứu về loại cây này là vào năm 1998, khi chúng tôi chứng minh được khả năng kéo dài thời gian sống của chuột bị ung thư, thông qua thí nghiệm gây ung thư cho chuột Vistar. Thí nghiệm cho chuột Vistar uống dịch chiết từ lá cây trinh nữ hoàng cung, thấy rằng con chuột bị ung thư không uống dịch chiết sẽ chết trong vòng 24 giờ, còn con chuột uống dịch chiết sẽ kéo dài thời gian sống là 135 ngày. Từ kết quả đó tôi rất vui mừng và tin tưởng công trình nghiên cứu của mình sẽ đi đến thành công.

Kết quả công trình nghiên cứu khoa học về cây thuốc trinh nữ hoàng cung đã trở nên nổi tiếng, được ứng dụng vào điều chế và sản xuất thuốc Crila, một dược phẩm điều trị u xơ tử cung và u xơ tiền liệt tuyến. Đến tháng 8/2005, viên thuốc sau gần 15 năm nghiên cứu của tôi đã chính thức được Bộ y tế cho phép lưu hành. Chế phẩm này đạt kết quả thử nghiệm lâm sàng thành công trên 89,18% người bệnh. Theo đánh giá nghiệm thu đề tài của TS. Phạm Thanh Kỳ, chủ tịch hội đồng khoa học: "Đề tài nghiên cứu có tính thực tiễn cao, phù hợp với tình hình thực tế hiện nay vì u xơ là bệnh hay gặp. Kết quả nghiên cứu đã đưa ra phác đồ điều trị an toàn từ nguồn dược liệu trong nước...".

Đầu tháng 10/2007, Hội đồng khoa học nghiệm thu chính thức của Bộ y tế đã nhất trí đề nghị Bộ y tế cho phép bổ sung chỉ định điều trị đối với thuốc viên Crila cho các bệnh nhân u xơ tử cung. Đây là một tin vui cho bệnh nhân u xơ tử cung vì đã có thêm một phương thuốc chữa trị hiệu quả, ít tốn kém và tỷ lệ khỏi bệnh cao (79,5% đối với các khối u xơ tử cung dưới 6 cm). Công trình nghiên cứu này đã được cấp bằng sở hữu trí tuệ và đưa tôi đến giải thưởng Kovalevskaia năm 2007.

Để có thành công trên, tôi không quản ngại khó khăn đi khắp mọi nẻo đường, miền đất của Tổ quốc để tìm kiếm giống cây, nghiên cứu thổ nhưỡng, phương pháp chăm sóc để có được giống cây chuẩn, chứa đựng những thành phần hóa học có khả năng điều trị u xơ. Không những thế, tôi còn phải nghiên cứu cả công nghệ với những thông số kỹ thuật phù hợp yêu cầu trong sản xuất, để tiến hành sản xuất thuốc Crila đạt tiêu chuẩn chất lượng từ nguồn nguyên liệu, công nghệ sản xuất... đều của Việt Nam.

Trinh nữ hoàng cung khiến cho tôi phải tạm gác lại những nghiên cứu về cây thảo quả, húng chanh, hoa hồng... nhưng nó đã đem lại cho tôi niềm vui khi bệnh nhân khỏi bệnh, được đóng góp cho ngành dược của Việt Nam một loại thuốc quý.


TS.Nguyễn Thị Ngọc Trâm
 
_____

Tác dụng của trinh nữ hoàng cung đã được khoa học chứng minh

Thứ sáu, 03/10/2008, 10:10 GMT+7

 
 
Từ lâu, trinh nữ hoàng cung đã được sử dụng trong dân gian để điều trị nhiều loại bệnh, trong đó có các khối u lành tính cũng như ác tính (ung thư).

Sau 15 năm nghiên cứu, cho đến nay công trình nghiên cứu khoa học của chúng tôi đã đạt nhiều kết quả rất khả quan: tìm ra cách phân biệt trinh nữ hoàng cung với các loại cây tương tự khác bằng DNA (nhằm tránh cho nhiều người uống nhầm mà bị ngộ độc), xác định được các chất trong trinh nữ hoàng cung có tác dụng kháng u, chiết xuất được các chất này từ trinh nữ hoàng cung để chế tạo ra một loại thuốc (lấy tên là Crila) điều trị u bướu, thử nghiệm trên người và khẳng định tính hiệu quả của nó, hoàn thiện quy trình công nghệ sản xuất thuốc.

TS. Trâm (người đứng giữa) nhận giải thưởng Kovalevskaia

Để đạt được thành quả như trên, nhất là việc thử nghiệm lâm sàng trên người và được Bộ y tế cho phép lưu hành, trong 15 năm qua, chúng tôi đã thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, cấp nhà nước với quy mô lớn.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Đánh giá tác dụng điều trị phì đại lành tính tuyến tiền liệt bằng viên nang trinh nữ hoàng cung", do GS.TS. Trần Đức Thọ, Viện lão khoa, Bệnh viện Bạch Mai làm chủ nhiệm đề tài, cho thấy: sau 2 tháng dùng thuốc Crila, nhóm bệnh nhân được nghiên cứu đạt hiệu quả khá và tốt là 89,18%, tác dụng không mong muốn nhẹ và chỉ gặp trên 24/157 trường hợp. Hội đồng khoa học đã đánh giá kết quả nghiên cứu này là xuất sắc. Dựa trên cơ sở đánh giá của Hội đồng khoa học cấp bộ, Cục quản lý dược đã cho phép viên nang Crila được lưu hành trên toàn quốc để điều trị u xơ tuyến tiền liệt.

Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ: "Đánh giá hiệu quả và khả năng chấp nhận thuốc Crila trong điều trị bệnh u xơ nhẵn tử cung (u xơ tử cung)", do PGS.TS. Vương Tiến Hòa, Bệnh viện phụ sản trung ương làm chủ nhiệm đề tài, kết quả cho thấy: thuốc có hiệu quả điều trị đối với bệnh nhân u xơ tử cung (đặc biệt là đối với u xơ tử cung có kích thước từ 6 cm trở xuống) với hiệu quả điều trị đạt 79,5%. Thuốc có độ an toàn cao, không có tác dụng phụ, không ảnh hưởng đến chức năng gan, thận và các chức năng sống khác của cơ thể. Với kết quả nghiệm thu xuất sắc, hội đồng khoa học đã nhất trí đề nghị Bộ y tế cho phép bổ sung thêm tác dụng thứ hai của viên nang Crila là điều trị u xơ tử cung.

Theo chúng tôi được biết, cho đến nay, đây là loại thuốc sản xuất từ dược thảo đầu tiên trên thế giới có khả năng điều trị u xơ tử cung ở phụ nữ.

Sản phẩm Crila là kết quả nghiên cứu của 4 đề tài khoa học cấp bộ, 2 dự án sản xuất thử nghiệm cấp bộ và cấp nhà nước cộng với quá trình nghiên cứu nhiều năm ở nước ngoài của TS. Nguyễn Thị Ngọc Trâm cùng các cộng sự.

 

Cây trinh nữ hoàng cung

Thứ sáu, 03/10/2008, 10:06 GMT+7

 
 
Cây trinh nữ hoàng cung (Crinum latifolium L.) họ thủy tiên (Amaryllidaceae), thuộc loài cây thân thảo, gần giống cây náng hoa trắng, thân hành, đường kính 10 - 16 cm, bẹ lá úp vào nhau thành thân giả dài khoảng 8 - 15 cm, có màu đỏ tía của sắc tố antocyan. Lá mỏng hình dải, mép lá nguyên, hơi uốn lượn, dài 70 - 120 cm, rộng 3 - 9 cm, gân lá song song.

Khác với lá náng hoa trắng là mặt dưới, giữa sống lá có một gờ sắc nhỏ chạy dọc theo lá. Cán hoa dài 20 - 50 cm, trên đầu mang 10 - 20 hoa hợp thành tán, có bẹ hình tam giác màu xanh ve, dài 5 - 7 cm, cuống hoa ngắn. Hoa dài 10 - 20 cm, đài và cánh hoa như nhau, màu trắng, ở giữa có vệt phớt hồng tạo thành ống dài 7 - 10 cm cong, nhị ngã, dài 5 - 7 cm. Bao phấn hình sợi dài 20 - 25 cm, dính lưng. Bầu hình ống chỉ, vòi nhị mảnh, vượt lên trên nhị.

Phân bố, thu hái, chế biến

Trinh nữ hoàng cung có nhiều ở Thái Lan, Campuchia, Việt Nam; cây phát triển tốt với khí hậu miền Nam nước ta. Bộ phận dùng là lá, dùng tươi hoặc phơi khô, có người xắt nhỏ sao khô, hạ thổ để dùng dần. Nhưng ở một số nước, người dân dùng cánh hoa, thân hành của cây, xắt nhỏ phơi khô.

Các chất có tác dụng kháng u

Từ năm 1983 cho đến nay, các công trình nghiên cứu về trinh nữ hoàng cung đã công bố thành phần hóa học của nó có khoảng 32 alcaloid. Trong số đó đáng quan tâm là một số alcaloid có tác dụng kháng u như: crinafolin, crinafolidin, lycorin, và b - epoxyambellin tác dụng trên tế bào T - lymphocyte và còn có tác dụng kháng khuẩn như hamayne (bulbispenmin, flavonoid, demethylcrinamin). Ngoài alcaloid còn có các hợp chất bay hơi, aldehyd, acid hữu cơ, terpen và glucan A, glucan B.

Công dụng và liều dùng

Trong dân gian, người ta dùng nước sắc của lá trinh nữ hoàng cung để trị u xơ tử cung, u nang buồng trứng và u xơ tiền liệt tuyến. Cách dùng: mỗi ngày uống nước sắc của 3 lá trinh nữ hoàng cung hái tươi, xắt nhỏ ngắn 1 - 2 cm, sao khô màu hơi vàng, uống luôn trong 7 ngày rồi nghỉ 7 ngày, uống 7 ngày. Tổng cộng 3 đợt uống 7 x 3 x 3 = 63 lá, xen kẽ giữa 2 đợt nghỉ uống một đợt 7 ngày.

Phân biệt với các cây khác để tránh bị ngộ độc

Hiện nay trong nhân dân có nhiều người nhầm lẫn cây trinh nữ hoàng cung với một số cây náng khác, sử dụng lá đun sôi lấy nước uống bị ngộ độc, nôn ói. Do đó phải phân biệt rõ cây trinh nữ hoàng cung với các cây náng khác có tại Việt Nam. Ngay trong chi Crinum chỉ có Crinum latifolium L. có tác dụng trị u xơ theo kinh nghiệm dân gian.

Một số đặc điểm phân biệt náng hoa trắng và cây trinh nữ hoàng cung:

Để có thể phân biệt cây trinh nữ hoàng cung với cây lan huệ cùng chi Crinum, phải dựa trên sự khác nhau về hình thái thực vật. Sự khác nhau về hình thái giữa những cây này trình bày trong bảng sau:

c

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét