Tháng 10 20, 2009 | 1 Bình luận
Điều trị sỏi tiết niệu là một nghệ thuật. Chuyên môn sẽ dựa vào: vị trí sỏi, kích thước sỏi, thành phần cấu tạo sỏi, thận đã ứ nước hay chưa, có suy thận hay không để chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp: nội khoa (hóa chất hoặc thảo mộc) hoặc tán sỏi (ngoài cơ thể, nội soi, qua da) hoặc phẫu thuật (nội soi hoặc theo cổ điển).
Theo vị trí, sỏi tiết niệu bao gồm: sỏi đài thận, sỏi bể thận, sỏi san hô, sỏi niệu quản đoạn trên, sỏi niệu quản đoạn giữa, sỏi niệu quản đoạn dưới, sỏi bàng quang và sỏi tuyến tiền liệt.
Theo cấu tạo, sỏi tiết niệu gồm có: sỏi phosphat và oxalat canxi, sỏi struvit, sỏi urat và sỏi cystin.
Ở thể điển hình, sỏi tiết niệu có các triệu chứng: đau thắt lưng – có khi đau nhiều kiểu cơn quặn thận và đái máu liên quan với vận động. Nhưng có một số trường hợp không có biểu hiện lâm sàng, sỏi tiết niệu được phát hiện tình cờ qua kiểm tra sức khỏe định kỳ, qua điều tra bệnh tật trong cộng đồng.
Để chẩn đoán sỏi tiết niệu, chuyên môn dựa vào siêu âm hệ tiết niệu; chụp Xquang hệ tiết niệu không thuốc hoặc có thuốc cản quang; thử nước tiểu tìm hồng cầu, bạch cầu, trụ hình.
Để chẩn đoán giai đoạn bệnh, người bệnh cần được xét nghiệm máu để biết số lượng hồng cầu, bạch cầu và nồng độ urê, creatinin, acid uric.
Điều trị sỏi tiết niệu là một nghệ thuật. Chuyên môn sẽ dựa vào: vị trí sỏi, kích thước sỏi, thành phần cấu tạo sỏi, thận đã ứ nước hay chưa, có suy thận hay không để chọn lựa phương pháp điều trị thích hợp: nội khoa (hóa chất hoặc thảo mộc) hoặc tán sỏi (ngoài cơ thể, nội soi, qua da) hoặc phẫu thuật (nội soi hoặc theo cổ điển).
Sự phối hợp và thống nhất phác đồ điều trị sỏi tiết niệu giữa các thầy thuốc nội khoa và ngoại khoa rất cần thiết. Trong bài viết này chỉ xin đề cập tới phương pháp điều trị nội khoa bệnh sỏi tiết niệu, lý giải việc lựa chọn các thuốc ở các khâu.
Có thể tóm tắt phương pháp điều trị nội khoa sỏi tiết niệu theo sơ đồ (xem hình).
Thuốc giảm đau, an thần có tác dụng trên thần kinh trung ương: Các thuốc này được áp dụng khi bệnh nhân có triệu chứng cơn đau quặn thận.
Tùy theo cường độ đau để chọn thuốc uống, thuốc tiêm trong các loại sau đây:
- Paracetamol: Efferalgan, alaxan
- Diclofenac: Voltaren
- Ibuprofen: Mofen
- Ketoprofen: Profenid
- Piroxicam: Felden
- Sulpiride: Dogmatil
- Diazepam: Valium, veduxen.
Thuốc chống co thắt, gây giãn cơ trơn, giãn niệu quản: Chọn một trong các thứ thuốc sau theo dạng viên hoặc ống:
- Papaverin.
- Alverine citrat (spasmaverin, meteospasmyl).
- No-spa.
- Spasfon.
Trong trường hợp đau nhiều có thể dùng phối hợp thuốc giảm đau và thuốc chống co thắt.
Thuốc kháng sinh: Khi sỏi tiết niệu bị bội nhiễm hoặc viêm thận – bể thận cấp với các biểu hiện: Sốt, đái đục, đái rắt, đái buốt cần chọn một trong các loại kháng sinh có tác dụng trên đường tiết niệu sau đây:
- Nhóm penicilline.
- Nhóm cephalosporin thế hệ 2, thế hệ 3, thế hệ 4 với các dược chất: cefuroxim, ceftriaxon, cefixim, cefepim.
- Nhóm quinolon với các dược chất: ciprofloxacin, levofloxacin, norfloxacin, ofloxacin.
Nếu có kháng sinh đồ để lựa chọn thuốc nhạy cảm là tốt nhất. Tuy nhiên cần phải cân nhắc khi chỉ định các thuốc kháng sinh độc thận đặc biệt ở người cao tuổi, phụ nữ có thai hoặc cho con bú.
Thuốc lợi tiểu và truyền dịch
Việc gây đái nhiều cường bức để có tác dụng tống sỏi đã được ứng dụng từ lâu. Dung dịch được dùng để truyền là glucose 5% và muối NaCl 9%o. Kết hợp thuốc lợi tiểu nhóm thiazid hoặc furosemid.
Thay đổi nếp sống
Chế độ ăn uống cũng góp phần phòng ngừa và hạn chế tạo thành sỏi tiết niệu.
Ví dụ:
- Chế độ ăn ít canxi, không uống sữa giàu canxi trong sỏi phosphat và oxalat.
- Uống dung dịch kiềm Na bicarbonat trong sỏi urat và bệnh gút.
Vận động thể lực, chạy, nhảy dây cũng góp phần tống sỏi từ niệu quản xuống bàng quang và từ bàng quang ra ngoài.
Thuốc bào mòn và làm tan sỏi
Trên thực tế ít có thuốc có khả năng trên. Các thuốc trong loại này sẽ làm giảm kết dính các tinh thể và có tác dụng ở những trường hợp sỏi nhỏ, bề mặt nhẵn, ở vị trí thấp và thành phần cấu tạo sỏi thích hợp, ví dụ:
- Succinimide pharbiol trong sỏi oxalat.
- Ammonium chlorid trong sỏi phosphat.
- Allopurinol trong sỏi urat.
- Penicillamin B trong sỏi cystin.
- Rowatinex có các thành phần: pinene, camphene, cineol, fenchone, borneol, anethol, olive oil.
- Viên sỏi thận domesco, có các thành phần: cao hạt chuối hột, cao rau om, cao râu mèo, cao hạt lười ươi.
- Kim tiền thảo, rễ cỏ tranh, bông mã đề, râu ngô là một bài thuốc y học cổ truyền chữa sỏi tiết niệu rất thông dụng.
- Các công ty dược của Việt Nam và Trung Quốc đã phát huy và cải tiến bài thuốc này để bào chế thành các biệt dược: kim tiền thảo bài thạch, thạch lâm thông…
Việc điều trị sỏi tiết niệu cần được theo dõi để đánh giá diễn biến của bệnh. Nếu bệnh thuyên giảm ít, có khuynh hướng nặng lên cần thay đổi phương pháp điều trị kể cả điều trị bằng phẫu thuật để phòng tránh suy thân mạn tính giai đoạn cuối.
HN (Nguồn: PGS.BS. Trần Văn Chất (Bệnh viện Bạch Mai))
Sỏi thận hình thành do lắng đọng các chất trong thận. Lúc đầu sỏi chỉ là có kích thước hiển vi sau đó lớn dần lên. Những triệu chứng của sỏi thận:
Tiểu ra máu (máu trong nước tiểu hematuria)
Tăng số lần đi tiểu (đái rắt)
Buồn nôn
Đau buốt khi đi tiểu
Đau khi chạm vào vùng thận
Nhiễm trùng đường tiểu.
Các phương pháp điều trị sỏi thận bằng công nghệ hiện đại như tán sỏi, phẩu thuật, chiếu tia X…đều tốn kém và rất dễ tái phát.
Viêm đường tiết niệu là do vi khuẩn gây viêm nhiễm được gọi là UTI (urinary tract infection). Sự viêm nhiễm này không đe dọa nghiêm trọng đến cuộc sống của bạn lúc đầu nhưng có thể nó sẽ gây đau rát và khó chịu.
Nếu chỉ bị viêm đường tiết niệu thông thường thì điều trị không khó khăn lắm và có thể khỏi hoàn toàn. Tuy nhiên nếu tình trạng bệnh kéo dài và trở nên mạn tính thì việc điều trị bằng các phương pháp tây y sẽ rất khó khăn và tình trạng tai phát bệnh chắc chắn sẽ lâp lại. Triệu chứng thường gặp là đái rắt (nghĩa là đái nhiều lần trong ngày, có thể 4-5 lần nhưng cũng có thể 10-20 lần, nhưng mỗi lần chỉ có rất ít nước tiểu) và đái buốt, thường buốt ở miệng sáo hoặc vùng tầng sinh môn vào cuối bãi.
Gia đình ông Lê Trọng Lịnh, ngụ tại thôn Vĩnh Phú xã Hòa An, Huyện Phú hòa, tỉnh Phú Yên, có bài thuốc gia truyền chuyên chữa bệnh sỏi thận và viêm đường tiết niệu mạn tính, bảo đảm cắt bệnh tận gốc. Bài thuốc được tạo ra từ 3 loại thảo mộc chính chỉ có ở khu vực nam trung bộ qua cách sao và tẩm thực đặc biệt.
Những ai bị sỏi thận và viêm đường tiết niệu mạn tính đã chữa nhiều nơi nhưng không khỏi hẳn, tái phát nhiều lần, xin liên hệ theo địa chỉ sau để được điều trị:
Ông Lê Trọng Lịnh, thôn Vĩnh Phú Xã Hòa An, huyện Phú Hòa, Tĩnh Phú Yên.
ykhoaviet.vn
Tránh tái phát sỏi tiết niệu
Tháng 8 17, 2011 | Viết bình luận
Những đặc điểm dịch tễ học của các sỏi đường tiểu đang tiến triển thường trực và thể hiện những biến đổi của thói quen ăn uống, của những tình trạng y tế (những nhiễm trùng đường tiểu), những yếu tố môi trường (khí hậu nóng) hay sự lưu hành của những bệnh lý làm dễ nguy cơ bị sỏi như bệnh đái đường hay chứng béo phì. Ở Pháp, các sỏi đường tiểu gây bệnh ít nhất 10% dân số, với một tỷ lệ lưu hành rõ rệt ở nam giới (khoảng hai người đàn ông đối với một phụ nữ). Các sỏi đường tiểu ảnh hưởng chủ yếu những người từ 40 đến 50 tuổi và hiếm hơn nhiều ở trẻ em. Các sỏi đường tiểu chịu trách nhiệm khoảng 100.000 cơn đau quặn thận (colique néphrétique) mỗi năm (những cơn đau dữ dội), được điều trị bằng 50.000 thủ thuật nghiền sỏi (lithotripsie) và 38.900 thủ thuật soi niệu quản (urétéroscopie).
Nếu không có những biện pháp phòng ngừa, sự tái phát của một sỏi thận là hầu như không thể tránh được. Ta ước tính rằng nguy cơ tái phát là 30 đến 40% lúc 5 năm và 50 đến 70% lúc 10 năm. Sự tái phát này sẽ xuất hiện dễ dàng hơn nếu bệnh đã bắt đầu ở một người trẻ tuổi (trước 30-40 tuổi). Những yếu tố nguy cơ chủ yếu do chế độ ăn uống của chúng ta ngày nay quá nhiều protéine, muối, đường, mỡ, soda và quá ít trái cây, rau xanh và những sản phẩm sữa.
Từ hai mươi năm nay, những quan niệm về điều trị nội khoa và sự phòng ngừa sỏi thận đã được biến đổi một cách đáng kể. Những quan niệm này dựa trên một điều tra căn nguyên (tìm kiếm những nguyên nhân) cần thiết đối với mỗi bệnh nhân bị sỏi thận. Sự điều tra nguyên nhân bao gồm phân tích sỏi đường tiểu nếu ta thu hồi được, một bilan máu và nước tiểu và một điều tra về chế độ ăn uống.
Tính chất của các viên sỏi ở Pháp đã hoàn toàn biến đổi từ 100 năm nay và ngày nay sỏi oxalo-calcique chiếm ưu thế. Chính những biến đổi về thói quen ăn uống giải thích những thay đổi bản chất của các viên sỏi. Vậy điều tra chế độ ăn uống là một bước quan trọng để thiết đặt những quy tắc về vệ sinh ăn uống, sẽ cho phép, nếu chúng được bệnh nhân tuân thủ, phòng ngừa các nguy cơ. Trong đại đa số các trường hợp, đó không phải là một chế độ ăn uống (régime alimentaire), theo nghĩa hẹp của thuật ngữ, nhưng đó là một sự chỉnh lại các thói quen ăn uống (réajustement des habitudes alimentaires). Việc kê toa một điều trị bằng thuốc hiếm khi xảy ra và sẽ được bàn bạc sau khi những quy tắc về vệ sinh được bệnh nhân tôn trọng. Trong bất cứ trường hợp nào, một điều trị bằng thuốc không thể thay thế những cố gắng phải làm về những thói quen ăn uống.
Điều tra ăn uống phải hướng về những thói quen của bệnh nhân đã có từ nhiều tháng và năm trước khi khám phá các viên sỏi. Ăn uống quá mức và lại còn nước uống không đủ là những yếu tố chủ yếu của các sỏi đường tiểu. Theo những kết quả của điều tra này, những quy tắc dinh dưỡng sau đây sẽ được bàn bạc và thích ứng đối với mỗi bệnh nhân.
NƯỚC UỐNG
Sự hấp thụ nước uống dồi dào để làm hòa loãng nước tiểu và làm chúng xuống dưới ngưỡng làm kết tinh các muối canxi là một nguyên tắc căn bản của phòng ngừa những tái phát của các sỏi đường tiểu. Đối với các bệnh nhân không phải luôn luôn dễ biết loại nước uống nào họ có thể hấp thụ. Khi đó phải thông tin cho bệnh nhân về những khác nhau giữa nước phân phối công cộng (“nước máy”: eau de robinet), nước khoáng và nước nguồn. Những thông điệp chủ yếu vẫn là lượng nước uống phải gần 2 lít nhằm đảm bảo một lưu lượng nước tiểu (thể tích nước tiểu mỗi ngày) khoảng 2 lít. Khi đạt được thể tích nước tiểu này, nguy cơ kết tinh của nước tiểu rất giảm, thậm chí không hiện hữu : khi đó ta nói nước tiểu bị pha loãng.
Chừng nào có thể được, phải cố đảm bảo một sự sử dụng đều đặn nước uống trong suốt ngày đồng thời ưu tiên nước, loại nước uống duy nhất cần thiết ! Một ly nước cam vắt 150-200 ml (không nhiều hơn vì có đường) cũng được khuyên do những tác dụng bảo vệ lên sỏi oxalate de calcium. Bia và cola khuyên không nên dùng.
CALCIUM
Những sản phẩm sữa cần thiết đối với một chế độ ăn uống bình thường và quân bình. Trong bối cảnh các sỏi đường tiểu, chúng cần thiết và chủ yếu không nên hủy bỏ chúng như người ta đã khuyến nghị trong quá khứ. Đó là một sai lầm nghiêm trọng. Vậy cung cấp phải được duy trì từ 2 đến 3 sản phẩm sữa mỗi ngày, đồng thời xét đến rằng một yogourt, một miếng fromage 30 g hay một ly sữa (120 ml) mỗi thứ đều tương đương với một sản phẩm sữa. Vậy lời khuyến nghị là tiêu thụ một sản phẩm sữa cho mỗi bữa ăn.
MUỐI THỰC PHẨM
Có một mối liên hệ trực tiếp giữa sự xuất hiện sỏi đường tiểu và sự tiêu thụ muối thức ăn. Ngày nay, người Pháp tiêu thụ quá nhiều muối, khoảng 10 g mỗi ngày trong khi sự tiêu thụ này không được vượt quá 6g mỗi ngày. Việc chống lại muối thức ăn là khó bởi vì chế độ ăn uống thuộc loại tây phương rất giàu muối. Ta không khuyến nghị là phải “ăn không muối” nhưng phải cho muối ở mức tối thiểu (để nấu nướng), tránh những thức ăn cho nhiều muối quá (soupe và món ăn công nghiệp, đồ thịt lợn, moutarde…) và nhất là loại bỏ những salières de table! Các bệnh nhân phải “tập lại thói quen” ăn đồ ăn “ít muối” .
NHỮNG CHẤT ĐẠM ĐỘNG VẬT
Cũng như đối với muối, các chất đạm động vật (thịt trắng và đỏ, cá, trứng, đồ thịt lợn) làm dễ sự xuất hiện của sỏi đường tiểu nếu chúng được tiêu thụ quá mức. Ta nói là quá mức khi các đạm động vật hiện diện trong hơn một bữa ăn mỗi ngày. Nói rõ hơn, nếu một bệnh nhân đã tiêu thụ thịt, cá hay trứng vào bữa ăn trưa, thì buổi ăn tối không nên tiêu thụ lần nữa những thức ăn này hoặc thay thế chúng bằng charcuterie. Về mặt đạm động vật, thì cá cũng có hại như thịt, về mỡ thì cá tốt hơn! Cũng khuyến nghị tránh đồ ngọt (sucreries) và tránh tiêu thụ đều đặn rượu. Sau cùng vài thức ăn rất giàu oxalate (hợp chất nguồn gốc thực vật liên kết với calcium trong nước tiểu để tạo thành sỏi oxalate de calcium) phải tránh tiêu thụ hay ít nhất rất hạn chế chúng. Trước hết đó là chocolat và còn hơn thế nữa chocolat đen (oxalate được chứa trong cacao). Vậy khuyên không nên tiêu thụ đều đặn và một cách quá dồi dào chocolat (1 đến 2 carré mỗi ngày có thể chấp nhận được). Cũng như vậy đối với chè (chủ yếu là chè xanh), tiêu, cola, quả hồ đào (noix) và quả phỉ (noisette), đậu phụng, brocoli, épinards, rau chút chít (oseille), đại hoàng (rhubarbe). Kết luận, sự phát hiện những yếu tố nguy cơ của sỏi thận từ nay cho phép thiết đặt những biện pháp “chỉnh lại chế độ ăn uống” (réajustement diététique). Có lẽ do không phải là một “régime” mà đúng hơn là một sự cân bằng lại (rééquilibration), một sự học lại (réapprentissage) những quy tắc tốt về ăn uống. Điều tra này và những biện pháp xuất phát từ đó sẽ phải được đề nghị một cách hệ thống cho mọi bệnh nhân đã có hay đang có các sỏi đường tiểu. Chúng là thiết yếu, cần thiết và đơn giản thực hiện để chống lại sự tái phát của các sỏi đường tiểu. Hiệp hội niệu khoa Pháp qua trung gian của Comité lithiase đã soạn thảo và phát hành một fiche “những lời khuyên về chế độ ăn uống” đối với những bệnh nhân bị sỏi, giải thích toàn bộ những quy tắc cần phải theo (fiche téléchargeable trên site urofrance-org) (LE FIGARO 6/6/2011)
Yduocngaynay.com
bachmai.gov.vn
Giới thiệu các phương pháp điều trị sỏi thận ít sang chấn
Sỏi tiết niệu đã thấy ở những xác ướp Ai Cập cổ đại từ năm 4800 trước công nguyên [10], [11]. Tỷ lệ mắc bệnh sỏi tiết niệu giao động từ 2 - 3%, thay đổi tuỳ theo từng vùng và hay tái phát với tỷ lệ khoảng 10% sau 1 năm; 35% sau 5 năm; 50% sau 10 năm [10], [11].
Với những thành tựu vượt bậc trong các lĩnh vực: chẩn đoán hình ảnh, công nghệ và trang thiết bị nội soi, dụng cụ phá sỏi...từ năm 1980 trở lại đây, một loạt các phương pháp điều trị sỏi thận không sang chấn ( non-invasive ) hoặc ít sang chấn ( mini-invasive ) đã ra đời và ngày càng hoàn thiện [6]. Các phương pháp chủ yếu điều trị sỏi thận ít sang chấn hiện tại bao gồm: lấy sỏi thận qua da ( percutaneous nephrolithotomy - PCNL ), tán sỏi thận qua nội soi niệu quản ngược dòng ( retrograde transureteral nephrolithotripsy ), lấy sỏi thận bằng phẫu thuật nội soi trong hoặc sau phúc mạc ( transperitoneally or retroperitoneally laparoscopic pyelolithotomy ). Chúng tôi xin giới thiệu một cách tổng quan về các phương pháp này như sau.
I. LẤY SỎI THẬN QUA DA
1.1. Lịch sử
Năm 1976, Fernstrom và Johanson thông báo trường hợp đầu tiên lấy sỏi thận qua da qua dẫn lưu thận đã được đặt trước đó. Năm 1979, Smith các đồng nghiệp đã mô tả thủ thuật tạo đường vào hệ tiết niệu qua da như là một thủ thuật nội soi niệu và ông đã thông báo 5 trường hợp điều trị sỏi thận và niệu quản bằng đường dẫn lưu thận xuyên da. Sự phát triển và cải tiến các dụng cụ phá sỏi bằng điện thuỷ lực, siêu âm, xung hơi và laser đã nhanh chóng làm cho việc lấy sỏi qua da với những viên sỏi lớn trở nên dễ dàng hơn [12]. Kỹ thuật này được ưa chuộng hơn mổ mở nhờ giảm được tỷ lệ tai biến - biến chứng, ít đau đớn sau mổ và thời gian hồi phục nhanh hơn.
1.2. Chỉ định và chống chỉ định
1.2.1. Chỉ định
- Sỏi trong túi thừa đài thận.
- Sỏi thận kèm theo hẹp khúc nối niệu quản - bể thận cần phải can thiệp phẫu thuật chỉnh sửa.
- Sỏi san hô, bán san hô, sỏi thận kích thước lớn ( > 2,5 cm ), sỏi thận nhiều viên.
- Bệnh nhân sỏi thận đã tán sỏi ngoài cơ thể thất bại hoặc chống chỉ định tán sỏi ngoài cơ thể.
1.2.2. Chống chỉ định [6]
* Chống chỉ định tuyệt đối: bệnh nhân có các rối loạn về đông máu chưa được điều trị ổn định.
* Chống chỉ định tương đối:
- Bệnh nhân có nhiễm khuẩn niệu, lao niệu chưa ổn định.
- Bệnh nhân có thai.
- Bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ cao: già yếu, nhiều bệnh kết hợp.
1.3. Kết quả điều trị
1.4. Tai biến - biến chứng
II. TÁN SỎI THẬN QUA NỘI SOI NIỆU QUẢN NGƯỢC DÒNG
2.1. Lịch sử
2.2. Chỉ định
2.3. Kết quả điều trị
2.4. Tai biến - biến chứng
III- LẤY SỎI THẬN BẰNG PHẪU THUẬT NỘI SOI TRONG HOẶC SAU PHÚC MẠC
3.1. Lịch sử
3.2. Chỉ định và chống chỉ định
3.2.1. Chỉ định [7]
3.2.2. Chống chỉ định [7]
3.3. Kết quả điều trị
3.4. Tai biến và biến chứng
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- Nguyễn Phúc Cẩm Hoàng và CS ( 2003 ), "Lấy sỏi thận qua da: kết quả sớm sau mổ qua 50 trường hợp tại Bệnh viện Bình Dân", Y học TP. Hồ Chí Minh, Hội nghị KHKT lần thứ 20, tập 2 ( Phụ bản của số 1 ), Tr. 66 - 74.
- Lê Sĩ Trung ( 2002 ), " Đáng giá kết quả bước đầu phương pháp nội soi tán sỏi qua da phối hợp với tán sỏi ngoài cơ thể trong điều trị ngoại khoa sỏi tiết niệu ", Tạp chí Ngoại khoa, kỷ yếu toàn văn các đề tài khoa học tham gia hội nghị Ngoại khoa quốc gia Việt Nam lần thứ 12, Tr. 279 - 283.
- Albert J. Mariani ( 2007 ), " Combined electrohydraulic and holmium: YAG laser ureteroscopic nephrolithotripsy of large ( greater than 4 cm ) renal calculi ",The Journal of Urology, 177, p. 168 - 173.
- Bapat S, Pai K, et al ( 2006 ), " Retrograde intrarenal surgegy ( RIRS ), study of 31 cases ", Urology, 68 (5A), Elsevier Science Inc, p. 205.
- Craig A. Peters, M.D., Louis R. Kavoussi, M.D., " Laparoscopy in children and adult ", Campell's urology (3) W. B. Saunders company, Philadelphia - USA, p. 2875 - 2912.
- F. Eiswnberger, K. Miller, J. Rassweiler ( 1991 ), Stone therapy in urology, Thieme Medical Publishers, Inc., New York.
- Jay T. Bishoff, M.D. ( 2007 ), " Laparoscopic surgery of the kidney ", Campbell - Wash Urology (2), Saunders company, Philadelphia - USA.
- Jeffry L. Huffman, M.D., Demetrius H. Bagley, M.D. ( 1988 ), Ureteroscopy, W. B. Saunders company, Philadelphia - USA.
- Jeffry L. Huffman, M.D. ( 1998 ), " Ureteroscopy ", Campell's urology (3) W. B. Saunders company, Philadelphia - USA, p. 2755 - 2788.
- Joseph W. Segura, M.D. (1996 ), " Percutaneous surgery ", Smith's textbook of endourology (1), Quality Medical Publishing, Inc, Canada, p. 153 - 368.
- Mani Menon, M.D. (1998), " Urinary lithiasis: Etiology, Diagnosis, and Medical management ", Campell's urology (3), W.B. Saunders company, p.2661 - 2734.
- Ralph V. Clayman, M.D., Elspeth M. McDougal, M.D. ( 1998 ), " Endourology of upper urinary tract: percutaneous renal and ureteral procedure ", Campell's urology (3) W. B. Saunders company, Philadelphia - USA, p. 2789 - 2874.
- S. R. Payne, D. R. Webb ( 1988 ), Percutaneous renal surgery, Churchill Livingstone, London.
Nguyễn Minh Tuấn
Khoa Ngoại BV Bạch Mai