Rối loạn tiền liệt tuyến (RLTLT) là một trong những vấn đề sức khỏe phổ biến nhất mà nam giới gặp phảo. Ban đầu với triệu chứng không đáng kể, hơi khó chịu, đến nghiêm trọng và đau đớn
Có ba rối loạn có thể ảnh hưởng đến tiền liệt tuyến (TLT): Viêm, phì đại lành tính và ung thư (UT). Chúng thường không phải luôn luôn xảy ra những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của người đàn ông.
Viêm TLT
Với tình trạng này, TLT phồng lên hoặc trở nên nhạy cảm. Đôi khi nhiễm trùng là nguyên nhân gây nên tình trạng viêm. Nhưng nhiều lúc không tìm ra được nguyên nhân gây viêm TLT, thường xảy ra ở độ tuổi 25 - 45. Với các triệu chứng: đau ở lưng dưới và vùng sinh dục, rối loạn đi tiểu, xuất tinh đau đớn, khám vùng TLT to hơn bình thường và đau khi ấn. Điều trị kháng sinh, kháng viêm, giảm đau và vật lý trị liệu.
Phì đại lành tính
Ở giai đoạn tuổi 45 trở đi, mô bên trong TLT thường bắt đầu lớn lên. Sự lớn lên này được gọi là phì đại TLT lành tính. Sự phì đại thường xảy ra ở phần giữa tuyến làm cho mô TLT chèn ép niệu quản và gây nên các vấn đề tiết niệu như: tiểu ngắt quãng, tiểu nhiều về ban đêm và bí tiểu. Nhiều người trải qua các triệu chứng này ở độ tuổi từ 55 - 60 tuổi. Những người khác không có triệu chứng đó cho tới ngoài 70. Điều trị thuốc phong bế alpha, phẫu thuật, liệu pháp laser…
Ung thư
UT TLT phổ biến nhất ở tuổi 50, tăng lên theo tỷ lệ thuận với tuổi tác, là sự lớn lên bất thường và không kiểm soát được của các tế bào mô, xảy ra bên trong của TLT. Giai đoạn đầu, không có bất kỳ triệu chứng nào. Khi bệnh phát triển, các triệu chứng giống như phì đại TLT. Với xét nghiệm PSA, và sinh thiết TLT có chẩn đoán xác định. Mặc dù phổ biến song các vấn đề RLTLT không phải không tránh khỏi. Có những điều nam giới có thể thực hiện để hạn chế nguy cơ, hoặc giảm tốc độ phát triển của bệnh. Ba bước quan trọng nhất để duy trì sức khỏe TLT và sức khỏe nói chung là: ăn uống đầy đủ, thường xuyên vận động và kiểm tra sức khỏe đều đặn.
Ăn nhiều chất có khả năng chống UT TLT và giảm nguy cơ RLTLT
Thức ăn và thức uống có thể làm giảm thiểu nguy cơ RLTLT, đặc biệt là UT. Các nhà nghiên cứu cho biết một số sản phẩm có nguồn gốc thực vật tỏ ra có lợi cho việc ngăn ngừa hoặc kiểm soát bệnh UT TLT.
- Cà chua: có chứa chất lycopen, chất này làm cho cà chua có màu đỏ, có tác dụng oxy hóa mạnh, bảo vệ các tế bào khỏi tác dụng của các gốc tự do, phân tử độc có thể làm tổn hại tế bào. Lycopen có trong sản phẩm cà chua nấu chín: xúp, nước sốt có khả năng chống ung thư tốt hơn lycopen trong sản phẩm tươi sống: cà chua tươi hoặc nước ép cà chua.
- Dưa hấu và bưởi đỏ ruột cũng chứa một lượng nhỏ lycopen.
- Đậu nành: một số hợp chất trong đậu nành giúp kích thích cơ thể tổng hợp globulin kiểm soát các nội tiết tố giới tính testosteron và estrogen. Khi được kiểm soát, các nội tiết tố này giảm tác dụng. Do đó, đậu nành ngoài tác dụng kiểm soát UT, còn có tác dụng ngăn ngừa chứng phì đại TLT, và hạ mức cholesterol.
- Trà xanh: có chứa hàm lượng chất kháng oxi hóa EGCG (epigallocatechin - 3 - gallate) cao, chất này giúp ngăn chặn các tế bào sống bị tổn thương và lão hóa sớm. Ức chế hoạt tính enzyme cần thiết cho sự phát triển của UT. Các nhà nghiên cứu đề nghị nam giới uống 3 tách trà xanh mỗi ngày có tác dụng ngừa UT TLT và UT vú.
- Các loại rau họ bắp cải gồm: cải bắp, bông cải, củ cải trắng, các loại rau này chứa một số chất có tác dụng ngăn cản sự phát triển UT TLT.
- Tỏi: giúp tăng cường khả năng miễn dịch, giảm tác động lan rộng của UT, tăng sự sản xuất enzyme, giúp loại bỏ những chất gây UT .
- Bổ sung các vitamin và khoáng chất: giúp cho TLT khỏe mạnh, đặc biệt là các vitamin C, D, E và các muối khoáng như: selen, kẽm.
- Kiêng chất béo: các nhà nghiên cứu ở Đại học Harward thấy rằng, những người ăn nhiều chất béo có nguy cơ bị UT TLT cao hơn 80% với người ăn ít chất béo.
- Ăn nhiều ngũ cốc và rau quả: cách tốt nhất để giảm chất béo và calo. Thức ăn thực vật, trái cây, rau và các thực phẩm làm từ ngũ cốc chứa nhiều vitamin, khoáng chất và chất xơ có tác dụng ngăn ngừa UT, đồng thời có lợi cho sức khỏe.
Năng vận động thể lực
Tập thể dục đều đặn làm tăng cường hệ miễn dịch, cải thiện sự lưu thông máu, tăng cường tiêu hóa, tất cả góp phần ngăn ngừa UT, giảm tình trạng béo phì, một tác nhân có khả năng dẫn đến UT.
Tập thể dục giúp cải thiện sức khỏe và khi kết hợp chế độ dinh dưỡng hợp lý có thể ngăn ngừa RLTLT.
Tập thể dục nhịp điệu, giúp tăng quá trình hít thở và nhịp tim, cải thiện sức khỏe tuần hoàn, mỗi 30 phút/ngày.
Đi bộ là môn phổ biến nhất, dễ dàng và không tốn kém. Ngoài ra, kết hợp các loại thể dục thể thao khác như: chạy xe đạp, đánh gôn, quần vợt, bóng rổ… Tùy tình trạng sức khỏe của mỗi người mà ta chọn các loại hình thể dục với quan niệm tập thể dục thể thao là một niềm vui.
Kiểm tra sức khỏe đều đặn
Đây là điều cần thiết để duy trì sức khỏe. Nếu RLTLT xuất hiện thì khám trực tràng và xét nghiệm PSA có thể phát hiện bệnh ở giai đoạn sớm nhất, lúc này bệnh dễ điều trị và chữa khỏi nhất.
Nếu không kiểm tra đều đặn thì nên sắp xếp cuộc hẹn khám sức khỏe, kể cả khám TLT và biến điều đó thành thói quen hàng năm.
Thiên Nam - Nguồn sức khỏe của bạn:
U XƠ TUYẾN TIỀN LIỆT
Theo một điều tra ở Mỹ (1991) thì cứ 7 người đàn ông trên 40 tuổi, có một người mắc bệnh u xơ tuyến tiền liệt (UXTTL). Tỷ lệ mắc bệnh ở tuổi 60 là 50%, tuổi 70 là 70%. Một nghiên cứu của Viện quân y 108 cho thấy: 50 tuổi thì tỷ lệ mắc bệnh là 50%, 60 là 60%, 70 là 70% và từ 80 trở lên thì xấp xỉ 100%.
Tuyến tiền liệt nằm ngày dưới cổ bàng quang, bao quanh đoạn đầu niệu đạo, trên cân đáy chậu giữa, sau xương mu và trước trực tàng. Tuyến chỉ to bằng hạt dẻ nhưng tới tuổi dậy thì, tuyến bắt đầu phát triển to ra tăng dần theo tuổi. Ở người trưởng thành, tuyến nặng trung bình 20g, rộng 4cm, cao 3cm, dày 1,5cm; phần lớn có 3 thùy: 2 thùy bên bao quanh niệu đạo và tiếp nối với nhau ở phía trước bằng một rãnh nhỏ, thùy thứ ba (thùy giữa) nằm trên lưng 2 thùy bên. Thùy giữa hơi lồi vào trong cổ bàng quang nên mỗi lần xung huyết thường gây khó tiểu tiện.
Năm 1953, Gil Vernet chia tuyến tiền liệt thành 2 phần: phần trên ụ núi phát triển thành UXTTL, phần dưới ụ núi phát sinh ung thư TTL. Do đó 2 bệnh u xơ và ung thư tuyến tiền liệt hoàn toàn khác nhau.
Năm 1981 Mc Neal chia tuyến tiền liệt thành 5 phần:
1. Tuyến tiền liệt trung tâm chiếm 20% khối lượng tuyến, bọc lấy ống phóng tinh nửa sau niệu đạo, phía trên ụ núi.
2. TTL ngoại vi, chiếm 70-75% khối lượng tuyến, có nhiều tổ chức biểu mô và rất ít tổ chức đệm. Vùng này là nơi phát sinh ung thư.
3. Phần quanh niệu đạo, ôm sát và bọc lấy 2/3 phía sau niệu đạo, chỉ chiếm 1% khối lượng tuyến.
4. Vùng chuyển tiếp gồm một số nhu mô tuyến và một ít chất đệm. Chính vùng này là nơi phát sinh và phát triển UXTTL.
5. Phần nằm trước niệu đạo là một giải cơ và xơ không có tổ chức tuyến.
Như vậy trong khối u tuyến tiền liệt có cả tổ chức tuyến, tổ chức cơ và tổ chức xơ nên danh từ "u xơ tuyến tiền liệt" ta thường gọi là không đúng. Hiện nay các nhà tiết niệu thống nhất danh từ: "U phì đại lành tính tuyến tiền liệt" (Benign prostatic hyperplasia) hoặc "adenom tuyến tiền liệt" (Prostatic adenom).
Bệnh gây ra 2 hội chứng chính là "bít tắc" và "kích thích".
1. U phát triển làm cho niệu đạo bị kéo dài ra, thành bàng quang dày lên gấp 2-3 lần so với bình thường. Khi tiểu tiện áp lực trong bàng quang tăng lên từ 30cm nước lên đến 50-60cm hoặc hơn do bị bít tắc phía dưới. Thành bàng quang hình thành các cột và hang. Vùng tam giác bàng quang cũng phì đại cản trở dòng nước tiểu từ thận xuống. "Van" lỗ niệu quản mất khả năng bù trừ làm nước tiểu trào ngược gây giãn niệu quả và đài - bể - thận. Nhiễm khuẩn phát triển gây viêm bể thận - thận dẫu tới suy thận.
Hội chứng kích thích: bệnh nhân luôn buồn tiểu cả ngày lẫn đêm nhất là nửa đêm về sáng. Cả 2 hội chứng trên làm người bệnh rất khổ sở vì tình trạng phải rặn tiểu, tiểu rỏ giọt, tiểu gấp, tiểu ngập ngừng, tiểu xong không thoải mái...
Phương pháp điều trị:
Tùy theo mức độ bệnh mà quyết định:
Chăm sóc và theo dõi: Không phải ca nào cũng phải mổ nên việc chăm sóc và theo dõi là rất quan trọng. Craigen theo dõi 251 bệnh nhân trong 6 năm thì 35% có thời kỳ bị bí tiểu cấp, 39% phải phẫu thuật còn 12% hết triệu chứng trở lại bình thường. Việc chăm sóc bao gồm: động viên bệnh nhân khám định kỳ kịp thời phát hiện biến chứng.
Ăn uống điều độ, không bia, rượu, thuốc lá, không ăn các gia vị nóng, không ngồi xe đạp, xe máy đường xa, vận động hợp lý, chống táo bón, uống đủ nước từ sáng tới trưa, chiều và tối giảm lượng nước.
Điều trị nội khoa
Các thuốc thường dùng:
- Thuốc ức chế enzym 5anpha eductase: Finasteride (proscar).
- Kháng androgen: Flutamide, cyproteron acetar.
- Các hormon nam và nữ.
- Các thuốc chiết xuất từ thảo mộc như trinh nữ hoàng cung, mận châu Phi (pygeum africanum) như tadenau và các thuốc lợi niệu như bông mã đề, nhục quế, rễ cỏ tranh...Điển hình như sản phẩm HOÀNG LIỆT TUYẾN.
Điều trị bằng phẫu thuật: dùng cho những trường hợp bí đái hay tái diễn, bí đái hòan tòan, nhiễm khuẩn kéo dài, đái máu tái diễn, có sỏi, túi thừa bàng quang, những trường hợp đã ảnh hưởng chức năng thận.
Có hai phương pháp thường dùng là mổ banh và cắt nội soi qua niệu đạo.
Một số phương pháp khác:
- Sử dụng sóng cao tần qua nội soi làm bốc hơi khối u.
- Đặng nong niệu đạo cài thiện cung lượng nước tiểu nhưng còn nhiều rối lọan tiểu tiện.
- Xẻ cổ bàng quang - tuyến tiền liệt: kết quả hạn chế
- Dùng bóng nong: ít hiệu quả.
- Bơm cồn ethanol vào tuyến gây hoại tử.
- Dùng tia laser triệt phá u.
- Cắt nội soi bằng dao lưỡng cực cho phép dùng nước muối trong mổ giúp giảm Na trong máu. Kỹ thuật đang trong giai đoạn thử nghiệm.
- Phương pháp áp lạnh làm hoại tử khối u nhưng có nguy cơ ảnh hưởng tới các tạng lân cận.
U xơ tuyến tiền liệt hay đúng hơn là u phì đại lành tính tuyến tiền liệt là một bệnh thường gặp ở nam giới cao tuổi. Bệnh gây nhiều biến chứng như viêm, tắc đường niệu ảnh hưởng nhiều tới chất lượng cuộc sống nhưng nhờ siêu âm nên việc chẩn đoán dễ dàng và nhờ các kết quả nghiên cứu mới nhất nên việc đánh giá tốt hơn và chỉ định điều trị hợp lý nên mang lại nhiều thành công rất đáng khích lệ.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
Theo một điều tra ở Mỹ (1991) thì cứ 7 người đàn ông trên 40 tuổi, có một người mắc bệnh u xơ tuyến tiền liệt (UXTTL). Tỷ lệ mắc bệnh ở tuổi 60 là 50%, tuổi 70 là 70%. Một nghiên cứu của Viện quân y 108 cho thấy: 50 tuổi thì tỷ lệ mắc bệnh là 50%, 60 là 60%, 70 là 70% và từ 80 trở lên thì xấp xỉ 100%.
Năm 1953, Gil Vernet chia tuyến tiền liệt thành 2 phần: phần trên ụ núi phát triển thành UXTTL, phần dưới ụ núi phát sinh ung thư TTL. Do đó 2 bệnh u xơ và ung thư tuyến tiền liệt hoàn toàn khác nhau.
Năm 1981 Mc Neal chia tuyến tiền liệt thành 5 phần:
1. Tuyến tiền liệt trung tâm chiếm 20% khối lượng tuyến, bọc lấy ống phóng tinh nửa sau niệu đạo, phía trên ụ núi.
2. TTL ngoại vi, chiếm 70-75% khối lượng tuyến, có nhiều tổ chức biểu mô và rất ít tổ chức đệm. Vùng này là nơi phát sinh ung thư.
3. Phần quanh niệu đạo, ôm sát và bọc lấy 2/3 phía sau niệu đạo, chỉ chiếm 1% khối lượng tuyến.
4. Vùng chuyển tiếp gồm một số nhu mô tuyến và một ít chất đệm. Chính vùng này là nơi phát sinh và phát triển UXTTL.
5. Phần nằm trước niệu đạo là một giải cơ và xơ không có tổ chức tuyến.
Như vậy trong khối u tuyến tiền liệt có cả tổ chức tuyến, tổ chức cơ và tổ chức xơ nên danh từ "u xơ tuyến tiền liệt" ta thường gọi là không đúng. Hiện nay các nhà tiết niệu thống nhất danh từ: "U phì đại lành tính tuyến tiền liệt" (Benign prostatic hyperplasia) hoặc "adenom tuyến tiền liệt" (Prostatic adenom).
Bệnh gây ra 2 hội chứng chính là "bít tắc" và "kích thích".
1. U phát triển làm cho niệu đạo bị kéo dài ra, thành bàng quang dày lên gấp 2-3 lần so với bình thường. Khi tiểu tiện áp lực trong bàng quang tăng lên từ 30cm nước lên đến 50-60cm hoặc hơn do bị bít tắc phía dưới. Thành bàng quang hình thành các cột và hang. Vùng tam giác bàng quang cũng phì đại cản trở dòng nước tiểu từ thận xuống. "Van" lỗ niệu quản mất khả năng bù trừ làm nước tiểu trào ngược gây giãn niệu quả và đài - bể - thận. Nhiễm khuẩn phát triển gây viêm bể thận - thận dẫu tới suy thận.
Hội chứng kích thích: bệnh nhân luôn buồn tiểu cả ngày lẫn đêm nhất là nửa đêm về sáng. Cả 2 hội chứng trên làm người bệnh rất khổ sở vì tình trạng phải rặn tiểu, tiểu rỏ giọt, tiểu gấp, tiểu ngập ngừng, tiểu xong không thoải mái...
Phương pháp điều trị:
Tùy theo mức độ bệnh mà quyết định:
Chăm sóc và theo dõi: Không phải ca nào cũng phải mổ nên việc chăm sóc và theo dõi là rất quan trọng. Craigen theo dõi 251 bệnh nhân trong 6 năm thì 35% có thời kỳ bị bí tiểu cấp, 39% phải phẫu thuật còn 12% hết triệu chứng trở lại bình thường. Việc chăm sóc bao gồm: động viên bệnh nhân khám định kỳ kịp thời phát hiện biến chứng.
Ăn uống điều độ, không bia, rượu, thuốc lá, không ăn các gia vị nóng, không ngồi xe đạp, xe máy đường xa, vận động hợp lý, chống táo bón, uống đủ nước từ sáng tới trưa, chiều và tối giảm lượng nước.
Điều trị nội khoa
Các thuốc thường dùng:
- Thuốc ức chế enzym 5anpha eductase: Finasteride (proscar).
- Kháng androgen: Flutamide, cyproteron acetar.
- Các hormon nam và nữ.
- Các thuốc chiết xuất từ thảo mộc như trinh nữ hoàng cung, mận châu Phi (pygeum africanum) như tadenau và các thuốc lợi niệu như bông mã đề, nhục quế, rễ cỏ tranh...Điển hình như sản phẩm HOÀNG LIỆT TUYẾN.
Điều trị bằng phẫu thuật: dùng cho những trường hợp bí đái hay tái diễn, bí đái hòan tòan, nhiễm khuẩn kéo dài, đái máu tái diễn, có sỏi, túi thừa bàng quang, những trường hợp đã ảnh hưởng chức năng thận.
Có hai phương pháp thường dùng là mổ banh và cắt nội soi qua niệu đạo.
Một số phương pháp khác:
- Sử dụng sóng cao tần qua nội soi làm bốc hơi khối u.
- Đặng nong niệu đạo cài thiện cung lượng nước tiểu nhưng còn nhiều rối lọan tiểu tiện.
- Xẻ cổ bàng quang - tuyến tiền liệt: kết quả hạn chế
- Dùng bóng nong: ít hiệu quả.
- Bơm cồn ethanol vào tuyến gây hoại tử.
- Dùng tia laser triệt phá u.
- Cắt nội soi bằng dao lưỡng cực cho phép dùng nước muối trong mổ giúp giảm Na trong máu. Kỹ thuật đang trong giai đoạn thử nghiệm.
- Phương pháp áp lạnh làm hoại tử khối u nhưng có nguy cơ ảnh hưởng tới các tạng lân cận.
U xơ tuyến tiền liệt hay đúng hơn là u phì đại lành tính tuyến tiền liệt là một bệnh thường gặp ở nam giới cao tuổi. Bệnh gây nhiều biến chứng như viêm, tắc đường niệu ảnh hưởng nhiều tới chất lượng cuộc sống nhưng nhờ siêu âm nên việc chẩn đoán dễ dàng và nhờ các kết quả nghiên cứu mới nhất nên việc đánh giá tốt hơn và chỉ định điều trị hợp lý nên mang lại nhiều thành công rất đáng khích lệ.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét